Diva (trong tiếng Ý cổ là Nữ thần) là một danh hiệu cao quý mà công chúng dành tặng cho một số ít nữ ca sĩ có tài năng xuất chúng trong thanh nhạc và âm nhạc. Đối với hầu hết các nữ ca sĩ đã và đang hoạt động trong nghệ thuật âm nhạc, diva luôn là giấc mơ, khát khao tột bậc của họ, là nấc thang cao nhất mà họ muốn vươn tới để khẳng định sự nghiệp của mình. Còn với công chúng, diva là một trong những ranh giới rõ nhất để phân biệt đẳng cấp giữa ca sĩ (có thể là rất nổi tiếng hoặc tài năng) và một bậc thầy, huyền thoại âm nhạc. Dù danh hiệu này thuộc về công chúng, không có bất cứ tổ chức nào (có quyền) đứng ra xếp hạng hay bình chọn, nhưng nó cũng có những quy chuẩn vô cùng khắt khe mà rất ít nữ ca sĩ có thể đạt được. Để được đông đảo công chúng nghe nhạc công nhận là diva, nữ ca sĩ phải hội tụ đầy đủ những điều kiện sau đây:
- Phải có một giọng hát xuất chúng, có thể hiểu là một giọng hát quý hiếm, hoặc là rất đẹp, hoặc là vô cùng đặc biệt mà không thể tìm thấy ở các ca sĩ thông thường.
- Phải thực hiện được hàng loạt những kĩ thuật thanh nhạc tinh xảo ở mức điêu luyện mà ca sĩ thông thường không làm được.
- Phải có một tư duy, khả năng cảm nhạc, thẩm mỹ âm nhạc xuất chúng.
- Phải có sự sáng tạo, cách tân to lớn với âm nhạc.
- Phải có cống hiến to lớn với lĩnh vực âm nhạc mình theo đuổi.
- Phải có ảnh hưởng lớn tới công chúng và các thế hệ ca sĩ sau đó.
Trong đó, hai điều kiện đầu tiên là hai điều kiện cần (điều kiện kiên quyết) để phân biệt diva với một nữ nghệ sĩ tài năng. Bởi trên thực tế, có những nữ nghệ sĩ/ca sĩ có tài năng, cống hiến ngang ngửa, thậm chí vượt trội hơn cả diva, nhưng không có thế mạnh về giọng hát và kĩ thuật thanh nhạc nên không thể gọi là diva. Các điều kiện còn lại là điều kiện đủ, để phân biệt diva với những nữ ca sĩ có giọng hát hay, kĩ thuật thanh nhạc vượt trội, nhưng tư duy và thẩm mỹ, sáng tạo, cống hiến, tầm ảnh hưởng trong âm nhạc hầu như không có nhiều.
Có rất ít nữ ca sĩ hội tụ đủ những điều kiện trên để được trân trọng gọi là DIVA. Và một câu hỏi vẫn thường được công chúng đặt ra, liệu ai trong số đó sẽ là DIVA SỐ 1?
Phần I. Những diva opera
Cần phải nhắc đến những diva opera đầu tiên, vì họ là những diva nguyên gốc, với đầy đủ mọi chuẩn mực cao quý nhất.
1. Maria Callas
Nếu hỏi ai là diva số 1 thế giới, chắc chắn mọi người sẽ nghĩ tới cái tên Callas đầu tiên, bà thực sự là một huyền thoại âm nhạc không ai sánh kịp. Callas sở hữu một giọng hát đa dạng bậc nhất, được gọi là giọng toàn năng (assoluta). Trong cùng một lúc, bà có thể hát với giọng nữ cao kịch tính đầy uy lực, âm lượng đanh thép, khổng lồ, lại có thể chuyển ngay sang nữ cao màu sắc với những biến tấu hoa mỹ trên các note cao vút, rồi đưa đẩy sang nữ cao trữ tình với làn hơi mượt mà, những note vuốt nhỏ mềm mại, thậm chí có thể hát cả vai của nữ trung với độ tối đầy đủ, xuống tận âm sắc của nữ trầm, âm vực của nam cao, nam trung. Không chỉ vậy, bà còn đạt tới cảnh giới của việc diễn bằng giọng hát, với khả năng tạo bão cảm xúc mà hầu như không một ca sĩ opera nào sánh kịp. Những người từng làm việc chung còn đánh giá bà có một khả năng cảm nhạc thiên tài và sự lao động vô cùng nghiêm túc. Bất cứ vai diễn nào Callas động vào cũng đều thành công xuất sắc, trở thành kinh điển cho các thế hệ sau này. Giới nghe opera thường xưng tụng bà bằng danh hiệu La Divina (Nữ thần).
Những đóng góp của Callas đối với nền opera quả thực vô cùng to lớn, bà là người làm sống lại nghệ thuật bel canto của opera Ý vốn đã bị ngủ quên từ lâu, để biến nó thành chuẩn mực lớn nhất của opera đương đại, cái mà đa số các ca sĩ opera đều theo đuổi. Thật khó để tìm được ca sĩ nào có kịch mục rộng lớn mà lại thành công như bà. Theo nhiều nguồn tin, từ diva ra đời kể từ lúc Callas trình diễn xuất thần Casta diva (một aria trong vở opera bel canto Norma của Bellini), gây tiếng vang rộng lớn, biến nó trở thành ca khúc huyền thoại mà mọi ca sĩ opera đều muốn thể hiện.
Callas được gọi là kinh thánh của opera, và cũng là ca sĩ đầu tiên được trao tặng danh hiệu diva, dù chính bà cũng không biết được gọi là diva từ khi nào. BBC ưu ái xếp bà vào vị trí đầu tiên trong danh sách 20 soprano vĩ đại nhất thế kỉ XX.
Nhược điểm lớn nhất của Callas có lẽ chất giọng hơi thô, bị đánh giá là xấu so với chuẩn mực opera Ý. Ngoài ra bà còn có tính cách khá đồng bóng, sớm nắng chiều mưa, hay đòi hỏi quá mức, và nhiều vấn đề tiêu cực trong đời sống cá nhân, dẫn tới việc mất giọng khá sớm. Chính hai điều trên đã khiến nhiều người không thích Callas, thậm chí bà còn có cả anti fan.
Mời các bạn nghe bản thu aria Casta diva (trích từ vở opera Norma của Bellini) năm 1960, một trong những bản thu hoàn hảo nhất của Callas. Casta diva là aria kinh điển và có mức độ phổ biến cao, mà hầu như ca sĩ opera nào cũng muốn hát để thể hiện đẳng cấp bel canto của mình, nhưng có lẽ chưa ai vượt qua được Callas, người đã làm sống dậy nó. Cách hát của Callas thể hiện rõ chất kịch tính của aria này, đúng nghĩa một nữ cao kịch tính. Đoạn cao trào, bà chỉ hát với note A5 nhưng âm lượng to khủng khiếp, cho ra những âm thanh căng tràn đầy kịch tính. Bà đã đạt đến độ linh hoạt bậc thầy của giọng hát khi phiêu liền mạch một làn hơi bị cắt nhỏ chỉ bằng một sự chuyển động nhẹ của thanh quản, rất tinh tế, đúng nghĩa là NGHỆ THUẬT HÁT ĐẸP. Trong khi hầu hết các giọng nữ khác hát đoạn này đều bị ngắt hơi hoặc lộ rõ hơi thở, ngay cả đến những diva như Caballe, Sills cũng khó tránh khỏi việc ngắt hơi hoặc làm hơi bị chậm đi. Một điều nữa, là Callas khi hát aria này đã thực sự diễn bằng giọng hát, thể hiện rõ cảm xúc, nội tâm nhân vật qua biểu cảm và giọng hát. Trong khi các ca sĩ khác thường chỉ đứng và hát, chỉ quan tâm đến phần hát mà bỏ qua phần diễn.
Mời các bạn nghe bản thu aria Casta diva (trích từ vở opera Norma của Bellini) năm 1960, một trong những bản thu hoàn hảo nhất của Callas. Casta diva là aria kinh điển và có mức độ phổ biến cao, mà hầu như ca sĩ opera nào cũng muốn hát để thể hiện đẳng cấp bel canto của mình, nhưng có lẽ chưa ai vượt qua được Callas, người đã làm sống dậy nó. Cách hát của Callas thể hiện rõ chất kịch tính của aria này, đúng nghĩa một nữ cao kịch tính. Đoạn cao trào, bà chỉ hát với note A5 nhưng âm lượng to khủng khiếp, cho ra những âm thanh căng tràn đầy kịch tính. Bà đã đạt đến độ linh hoạt bậc thầy của giọng hát khi phiêu liền mạch một làn hơi bị cắt nhỏ chỉ bằng một sự chuyển động nhẹ của thanh quản, rất tinh tế, đúng nghĩa là NGHỆ THUẬT HÁT ĐẸP. Trong khi hầu hết các giọng nữ khác hát đoạn này đều bị ngắt hơi hoặc lộ rõ hơi thở, ngay cả đến những diva như Caballe, Sills cũng khó tránh khỏi việc ngắt hơi hoặc làm hơi bị chậm đi. Một điều nữa, là Callas khi hát aria này đã thực sự diễn bằng giọng hát, thể hiện rõ cảm xúc, nội tâm nhân vật qua biểu cảm và giọng hát. Trong khi các ca sĩ khác thường chỉ đứng và hát, chỉ quan tâm đến phần hát mà bỏ qua phần diễn.
https://www.youtube.com/watch?v=mnKocTbNwRs
2. Joan Sutherland
Được BBC xếp ngay thứ hai trong danh sách 20 soprano vĩ đại nhất mọi thời đại, Joan Sutherland luôn được coi là một đối thủ đáng gờm của Callas trong kịch mục bel canto. Thậm chí, chính Callas khó tính đã từng thốt lên rằng: "Cô ấy đã bỏ sự nghiệp của tôi lại phía sau những 100 năm".
Khác với Callas, Sutherland không phải một giọng toàn năng, cũng không phải một bậc thầy về diễn xuất, nhưng lại nắm trùm ở kịch mục dành cho nữ cao màu sắc, mà đến chính Callas cũng không thể bì kịp. Sở hữu chất giọng nữ cao kịch tính bẩm sinh, nhưng nhờ công sức luyện tập bền bỉ, Sutherland gần như chuyển hẳn sang loại giọng màu sắc của bel canto với sự mềm mại, ngọt ngào đến khó tin, cái mà các giọng thuần kịch tính khác (thậm chí ngay cả Callas) cũng không thể làm được. Ở mảng này, bà được cho là một bậc thầy với chất giọng đẹp, trong sáng, càng lên cao lại càng sáng đẹp một cách lạ lùng với những kĩ thuật vô cùng khó khăn nhưng chuẩn mực đến từng cm. Những note D6, Eb6 của bà gần như không có đối thủ vì nó quá đẹp, lúc thì phóng ra với âm lượng khổng lồ, chắn ngang cả dàn nhạc, lúc lại biến tấu hoa mĩ một cách siêu phức tạp. Nếu ở Callas, chúng ta đôi khi vẫn tìm ra một số lỗi kĩ thuật nhỏ thì ở Sutherland, dù có soi kĩ đến mấy cũng vẫn là một sự hoàn hảo đến không tưởng ở mọi note nhạc. Nếu Callas là người khai phá thành công bel canto thì Sutherland chính là người đưa nó đến đỉnh cao nhất trong opera. Giới opera cũng ưu ái ngợi ca bà bằng danh xưng La Stupenda (Tuyệt diệu).
Nhược điểm lớn nhất của Sutherland là hát không rõ lời, khả năng diễn xuất chưa thực sự xuất thần và đa dạng (nhưng cũng không hẳn là không tốt), và đôi khi sự trau chuốt quá mức chưa chắc đã gây hấp dẫn với người nghe.
Nếu Callas là người đưa Casta diva đến sự kịch tính và cảm xúc thì Joan là người mang lại cho nó vẻ đẹp của âm thanh. Có rất ít ca sĩ dám hát aria này ở tone gốc G nhưng chỉ có Joan mới đẩy lên cao trào mạnh mẽ và đẹp đến như thế, với những note D6 sáng rực, đẹp một cách chuẩn mực, kèm theo những cú trillo trang trí vào note nhạc hoa mỹ đúng chất màu sắc của bel canto.
https://www.youtube.com/watch?v=iK2LwLyZAlc
Nếu Callas là người đưa Casta diva đến sự kịch tính và cảm xúc thì Joan là người mang lại cho nó vẻ đẹp của âm thanh. Có rất ít ca sĩ dám hát aria này ở tone gốc G nhưng chỉ có Joan mới đẩy lên cao trào mạnh mẽ và đẹp đến như thế, với những note D6 sáng rực, đẹp một cách chuẩn mực, kèm theo những cú trillo trang trí vào note nhạc hoa mỹ đúng chất màu sắc của bel canto.
https://www.youtube.com/watch?v=iK2LwLyZAlc
3. Birgit Nilsson
Birgit Nilsson xứng đáng với danh hiệu giọng hát khổng lồ của mọi thời đại, bà là nữ cao kịch tính xuất sắc và thành công nhất thế kỉ XX, người đại diện cho trường phái opera Wagner (dù trước bà đã có một tên tuổi cực lớn là Kirsten Flagstad). Khác với tất cả các giọng nữ cao kịch tính khác vốn có âm sắc hơi tối kiểu nữ trung, Nilsson sở hữu một âm sắc sáng rực như một nữ cao màu sắc. Đây là một điều vô cùng quý hiếm, vì dù sáng và cao vút nhưng lại không mảnh, nhẹ như như nữ cao màu sắc thông thường, mà lại chắc nịch, đanh thép, khổng lồ đúng nghĩa kịch tính thực sự. Theo nhiều tài liệu ghi nhận, Nilsson có thể lên tới note F6, một note thuộc ngưỡng rất cao của giọng màu sắc mà giọng kịch tính không thể lên tới được. Nilsson còn đặc biệt hơn nữa so với các giọng ca khác khi càng về già, giọng của bà lại càng sáng ra. Bà cũng là một trong số rất ít nữ cao kịch tính có thể giữ giọng lâu bền mà không hề có dấu hiệu mất giọng, dù phải hát thường xuyên những vai kịch tính nặng trong suốt sự nghiệp.
Về kĩ thuật, có thể nói, Nilsson nắm trùm ở mảng "project" âm thanh, với những note B5, C6 được phóng ra với âm lượng khổng lồ, đanh thép, xuyên thủng một dàn nhạc, mà lại vô cùng chuẩn mực, chính xác đến không ngờ. Gần như không có giọng nam nào dám đọ giọng với bà ở những note cao vì uy lực của bà quá lớn, sẵn sàng át hết các giọng ca hát chung. Và mặc dù đồ sộ như vậy, nhưng bà vẫn có đầy đủ kĩ thuật và khả năng làm cho giọng hát của mình trở nên mềm mại ở những chỗ cần thiết. Thậm chí, kĩ thuật vuốt nhỏ giọng (pianissimo) của bà còn tốt hơn người ta tưởng rất nhiều. Khả năng điều khiển hơi thở tốt, giữ hơi bậc thầy giúp bà tung được những chuỗi note kịch tính căng tràn trong suốt một làn hơi dài bất tận, điều được coi là khó khăn với giọng kịch tính vốn bị âm lượng quá to chèn mất hơi thở.
Với tất cả những điều đặc biệt trên, Nilsson là giọng kịch tính thành công nhất ở mảng opera kịch tính nói chung và trường phái opera Wagner nói riêng. Sự nghiệp của bà là cuốn giáo trình tuyệt vời nhất để các giọng kịch tính sau này học hỏi.
Hạn chế của Nilsson có lẽ ở chất giọng quá sáng và đanh của bà bị đánh giá là không đẹp theo chuẩn mực opera Ý. Hơn nữa, kịch mục của Nilsson chưa thực sự rộng lớn như các diva khác. Thời kì đầu mới đi hát, Nilsson thường bị chê là có nhạc cảm chưa tốt. Chất giọng quá lớn cũng khiến bà gặp nhiều khó khăn trong quá trình thu âm. Ngoài ra, bà bị thiếu hụt ở âm khu trung, trầm, bà có thể làm chủ ở các quãng cao, nhưng quãng trung, trầm lại khá mờ, không dày, ấm như các nữ cao kịch tính khác.
Một trong những aria đỉnh cao nhất của Nilsson phải kể đến In questa reggia (trích từ vở opera Turandot của Puccini). Aria này thuộc vai diễn kịch tính nặng dành riêng cho nữ cao kịch tính, mà nhiều giọng spinto soprano chỉ dám thu trong phòng thu âm, chứ khó mà hát thường xuyên trên sân khấu được như Nilsson. Khác với các nữ cao kịch tính khác, Nilsson hát aria này với âm sắc sáng rực của giọng màu sắc, nhưng âm lượng áp đảo toàn bộ dàn nhạc, những note C6 của bà trong aria này đã trở thành huyền thoại với sự chuẩn mực đến khó tin. Và có lẽ, không một tenor nào dám "chọc giận" Nilsson nếu không muốn bị bà áp đảo hoàn toàn trong trận chiến của những note đô cao này.
https://www.youtube.com/watch?v=No7HztlaBJw
Hạn chế của Nilsson có lẽ ở chất giọng quá sáng và đanh của bà bị đánh giá là không đẹp theo chuẩn mực opera Ý. Hơn nữa, kịch mục của Nilsson chưa thực sự rộng lớn như các diva khác. Thời kì đầu mới đi hát, Nilsson thường bị chê là có nhạc cảm chưa tốt. Chất giọng quá lớn cũng khiến bà gặp nhiều khó khăn trong quá trình thu âm. Ngoài ra, bà bị thiếu hụt ở âm khu trung, trầm, bà có thể làm chủ ở các quãng cao, nhưng quãng trung, trầm lại khá mờ, không dày, ấm như các nữ cao kịch tính khác.
Một trong những aria đỉnh cao nhất của Nilsson phải kể đến In questa reggia (trích từ vở opera Turandot của Puccini). Aria này thuộc vai diễn kịch tính nặng dành riêng cho nữ cao kịch tính, mà nhiều giọng spinto soprano chỉ dám thu trong phòng thu âm, chứ khó mà hát thường xuyên trên sân khấu được như Nilsson. Khác với các nữ cao kịch tính khác, Nilsson hát aria này với âm sắc sáng rực của giọng màu sắc, nhưng âm lượng áp đảo toàn bộ dàn nhạc, những note C6 của bà trong aria này đã trở thành huyền thoại với sự chuẩn mực đến khó tin. Và có lẽ, không một tenor nào dám "chọc giận" Nilsson nếu không muốn bị bà áp đảo hoàn toàn trong trận chiến của những note đô cao này.
https://www.youtube.com/watch?v=No7HztlaBJw
4. Montserrat Caballe
Trong những năm cuối đời, người ta đã từng hỏi Callas xem ai có thể thay thế được vị trí của bà, và Montserrat Caballe chính là lựa chọn duy nhất của bà. Tất nhiên, không một ai có thể thay thế được Callas, nhưng qua đánh giá của một người khó tính như bà, chúng ta đủ hiểu được tài năng của Caballe vượt trội cỡ nào. Khi đánh giá về Caballe, giới chuyên môn thường đưa ra một công thức: Callas (kĩ thuật và cảm xúc) + Teballdi (âm sắc giọng đẹp không ai bì kịp) = Caballe
Caballe sở hữu một chất giọng đẹp thuần Ý, ấm áp, đầy đặn và mềm mại như pha lê. Bà là người có hơi thở vô địch trong giới opera, một làn hơi của bà có thể kéo dài đến 1 phút 45 giây, đến mức nam danh ca opera Domingo đã phải thốt lên rằng: "Caballe đã từng giữ một hơi thở khi nhạc công chơi xong ba trang nhạc, và thậm chí có thể giữ lâu hơn thế". Lợi thế đó đã giúp Caballe có được những chuỗi note vô cùng dài hơi, mà vẫn mềm mại tựa hơi thở của gió. Theo nhiều tài liệu ghi nhận, bà đã từng giữ một chuỗi note dài 32 giây trong vở Don Carlos. Bà đặc biệt nổi tiếng ở mảng kĩ thuật pianissimo (vuốt nhỏ giọng - kĩ thuật đặc trưng của dòng bel canto) trên mọi note nhạc đạt được. Danh ca Domingo kể rằng, ông đã từng choáng ngợp trước kĩ thuật pianissimo của Caballe trong lần diễn chung vở Don Carlos tại Arena di Verona năm 1969, khi bà tung ra những pianissimo nhỏ li ti nhưng vẫn bay khắp cả sân khấu: "khoảng cách có thể từ 20 đến 30 mét - không gì có thể chuyển tải được cảm giác chia cách mạnh mẽ và hiệu quả hơn!". Về kĩ thuật, không ai có thể chuẩn mực và chính xác hơn Caballe, dù có thể không lấn sân sang những kĩ thuật phô diễn hoa mỹ màu sắc. Có thể nói, ở mảng opera bel canto dành cho loại giọng nữ cao trữ tình, không ai có thể qua mặt được Caballe bởi chất giọng quá đẹp tới mức long lanh, tráng lệ của bà với legato siêu mượt và cảm xúc lúc nào cũng căng tràn. Không chỉ vậy, với kĩ thuật cô cùng siêu đẳng, bà có thể hát cả những vai vốn dành riêng cho giọng kịch tính như Turandot, Salome một cách không thường xuyên mà không bị mất giọng. Đây là điều hiếm thấy với giọng trữ tình, đồng thời cũng mở rộng kịch mục của bà đến mức tối đa mà ít ca sĩ nào sánh kịp. Cùng với Callas (kịch tính), Sutherland (màu sắc), Caballe (trữ tình) đã tạo ra trụ thứ ba trong thế kiềng ba chân để xây dựng nên đế chế bel canto vững mạnh tới tận ngày nay.
Hạn chế của Caballe nằm ở chính ngoại hình ngoại cỡ của bà, kéo theo khả năng diễn xuất bị hạn chế rất nhiều. Bà cũng ít khi thành công ở các kĩ thuật phô diễn màu sắc kiểu Virtousso, và thường bị đóng khuôn ở cách hát trữ tình vì lối hát quá an toàn. Các note trên C6 của Caballe cũng bị đánh giá là hơi gượng, không quá đẹp như Sutherland.
Một trong những aria đỉnh cao nhất của Caballe phải kể đến Signore ascolta (vai Liu trong vở Turandot). Một chuỗi note dài bắt đầu từ những pianissimo Bb5 nhỏ li ti mà không gợn, vẫn vang rền xuyên qua không gian, len lỏi vào mọi ngõ ngách của nhà hát, kéo dài đến những chuỗi cressendo to đều, căng tràn về cuối trong 21 giây là một kì tích mà ngoài Caballe ra, chưa có ca sĩ nào làm được.
https://www.youtube.com/watch?v=UL9WzAdVDzA
5. Leontyne Price
Có một nữ ca sĩ da màu đã đánh bại các ca sĩ da trắng tài năng khác để trở thành một trong những ngôi sao opera lớn nhất của nhà hát danh giá Metropolitan, nhận mức catse ngang ngửa với các Prima Donna tên tuổi lúc bấy giờ là Maria Callas, Renata Tebaldi, Joan Sutherland, có một giọng nữ cao da màu đã vượt qua mọi sự kì thị, phân biệt chủng tộc gay gắt những năm thập niên 60 (nhất là trong opera - nền nghệ thuật của người da trắng) để trở thành ca sĩ opera da màu đầu tiên thành công ở tầm cỡ thế giới, ghi tên mình vào hàng ngũ những Prima Donna huyền thoại, đó chính là Leontyne Price - Prima Donna da màu thành công nhất trong suốt lịch sử hàng trăm năm của opera.
Là một spinto soprano, giọng hát của Leontyne có nội lực rất lớn, có thể đẩy lên kịch tính ở những đoạn cao trào, mà nhà phê bình Harold Schonberg đã ca ngợi trên tờ New York Times là “giọng hát của cô ấm áp và ngọt ngào với một âm lượng khỏe khoắn có thể dễ dàng lấp đầy bất cứ nhà hát nào”. Nhưng ở những đoạn trữ tình, giọng hát ấy lại trở nên mềm mại, mượt mà với những legato và pianissimo chau chuốt. Giống như Callas, Leontyne sở hữu một chất giọng vô cùng đặc biệt, đa dạng và giàu màu sắc, không thể lẫn với ai được. Chất giọng của bà có đặc trưng hơi khàn (giống với hai ca sĩ họ hàng xa của mình là Cissy Houston và Whitney Houston) và ồm, có thể belt giọng ngực ở quãng trung rất dày, đanh như một nữ trung (điều hiếm thấy ở đa số các soprano khác), âm khu trung ấm áp và đầy đặn, nhưng lên cao lại rất sáng, đẹp, chắc chắn. Tuy là một spinto soprano, nhưng quãng giọng rộng giúp bà vươn tới tận ngưỡng của coloratura soprano, đồng thời cũng thực hiện được rất nhiều kĩ thuật màu sắc, linh hoạt của loại giọng này. Điều này chứng tỏ Leontyne có một nền tảng kĩ thuật vô cùng điêu luyện và phong phú. Chính chất giọng đặc biệt kết hợp với kĩ thuật điêu luyện đã giúp Leontyne thực hiện một cách xuất sắc các vai diễn của nhà soạn nhạc Verdi, trở thành đại diện lớn nhất của trường phái opera Verdian trong thế kỉ XX, mà nhà phê bình Anh JB Steane từng viết: "người ta có thể kết luận từ các bản thu âm của Price rằng cô là thông dịch viên tốt nhất của Verdi trong thế kỉ này", còn nam danh ca opera Domingo thì nhận định rằng: "sức mạnh và cảm xúc trong giọng hát của Leontyne là một hiện tượng nữ cao Verdi đẹp nhất mà tôi từng nghe". Sự nghiệp thu âm đa dạng từ các aria kịch tính đến màu sắc, trữ tình, spinto và khả năng thể hiện nhiều loại vai khác nhau đã giúp bà trở thành một trong những "Prima Donna Assoluta" của Met.
Sở trường lớn nhất của Leontyne có lẽ nằm ở việc thư giãn các cơ cằm, môi, khẩu hình để điều khiển độ vang của giọng hát và thay đổi tính chất âm thanh một cách tuyệt vời. Đặc biệt ở các note đô cao, không ai làm điều này tốt hơn bà.
Sự nghiệp của Leontyne đã mở đường cho nhiều thế hệ ca sĩ opera da màu sau này, trở thành cảm hứng bất tận cho nhiều giọng nữ cao nổi tiếng như Renee Fleming, Kiri Te Kanawa, Jessye Norman, Leona Mitchell, Barbara Bonney, Sondra Radvanovsky. Với những đóng góp lớn của mình, bà đã được tạp chí BBC xếp thứ 4 trong danh sách 20 soprano vĩ đại nhất thế kỉ XX. Leontyne cũng là nữ ca sĩ opera nhận được nhiều giải Grammy nhất với tổng cộng 13 giải thưởng. Buổi biểu diễn vở Il Trovatore trong lần debut của bà tại Met đã nhận được những tràng vỗ tay liên tục trong suốt 42 phút, một trong những màn vỗ tay dài nhất trong lịch sử nhà hát này.
Nhược điểm của Leontyne cũng nằm ở chất giọng khàn của bà, nó bị đánh giá là hơi khác so với chuẩn mực opera Ý, nhiều người nghe không quen sẽ cảm thấy hơi khó chịu. Leontyne hoàn toàn có khả năng mở rộng kịch mục sang bel canto, nhưng bà chỉ dừng lại ở các vai dành cho spinto soprano.
Một trong những aria đỉnh cao nhất của Leontyne phải kể đến O Patria Mia trong vở opera Aida của Verdi, đây cũng là vai diễn huyền thoại đem lại tên tuổi cho Leontyne mà chưa từng có ca sĩ nào thể hiện thành công hơn bà. Người ta thậm chí còn đồn rằng Birgit Nilsson sau khi nghe Leontyne thể hiện Aida thì không bao giờ dám động vào vai diễn này lần nữa. Trong buổi diễn opera cuối cùng vào năm 1985 tại Met, ở aria này, Leontyne đã một lần nữa làm khán giả sững sờ với màn vuốt note C6 16 giây bậc thầy không ai sánh kịp.
https://www.youtube.com/watch?v=xGfP38nd-U0
Tất nhiên, tòa lâu đài opera và nhạc cổ điển rộng lớn vẫn còn rất nhiều tên tuổi bậc thầy khác đáng chú ý, nhưng trên đây là 4 diva hàng đầu mà có lẽ khó ai có thể vượt qua họ.
Một trong những aria đỉnh cao nhất của Caballe phải kể đến Signore ascolta (vai Liu trong vở Turandot). Một chuỗi note dài bắt đầu từ những pianissimo Bb5 nhỏ li ti mà không gợn, vẫn vang rền xuyên qua không gian, len lỏi vào mọi ngõ ngách của nhà hát, kéo dài đến những chuỗi cressendo to đều, căng tràn về cuối trong 21 giây là một kì tích mà ngoài Caballe ra, chưa có ca sĩ nào làm được.
https://www.youtube.com/watch?v=UL9WzAdVDzA
5. Leontyne Price
Có một nữ ca sĩ da màu đã đánh bại các ca sĩ da trắng tài năng khác để trở thành một trong những ngôi sao opera lớn nhất của nhà hát danh giá Metropolitan, nhận mức catse ngang ngửa với các Prima Donna tên tuổi lúc bấy giờ là Maria Callas, Renata Tebaldi, Joan Sutherland, có một giọng nữ cao da màu đã vượt qua mọi sự kì thị, phân biệt chủng tộc gay gắt những năm thập niên 60 (nhất là trong opera - nền nghệ thuật của người da trắng) để trở thành ca sĩ opera da màu đầu tiên thành công ở tầm cỡ thế giới, ghi tên mình vào hàng ngũ những Prima Donna huyền thoại, đó chính là Leontyne Price - Prima Donna da màu thành công nhất trong suốt lịch sử hàng trăm năm của opera.
Là một spinto soprano, giọng hát của Leontyne có nội lực rất lớn, có thể đẩy lên kịch tính ở những đoạn cao trào, mà nhà phê bình Harold Schonberg đã ca ngợi trên tờ New York Times là “giọng hát của cô ấm áp và ngọt ngào với một âm lượng khỏe khoắn có thể dễ dàng lấp đầy bất cứ nhà hát nào”. Nhưng ở những đoạn trữ tình, giọng hát ấy lại trở nên mềm mại, mượt mà với những legato và pianissimo chau chuốt. Giống như Callas, Leontyne sở hữu một chất giọng vô cùng đặc biệt, đa dạng và giàu màu sắc, không thể lẫn với ai được. Chất giọng của bà có đặc trưng hơi khàn (giống với hai ca sĩ họ hàng xa của mình là Cissy Houston và Whitney Houston) và ồm, có thể belt giọng ngực ở quãng trung rất dày, đanh như một nữ trung (điều hiếm thấy ở đa số các soprano khác), âm khu trung ấm áp và đầy đặn, nhưng lên cao lại rất sáng, đẹp, chắc chắn. Tuy là một spinto soprano, nhưng quãng giọng rộng giúp bà vươn tới tận ngưỡng của coloratura soprano, đồng thời cũng thực hiện được rất nhiều kĩ thuật màu sắc, linh hoạt của loại giọng này. Điều này chứng tỏ Leontyne có một nền tảng kĩ thuật vô cùng điêu luyện và phong phú. Chính chất giọng đặc biệt kết hợp với kĩ thuật điêu luyện đã giúp Leontyne thực hiện một cách xuất sắc các vai diễn của nhà soạn nhạc Verdi, trở thành đại diện lớn nhất của trường phái opera Verdian trong thế kỉ XX, mà nhà phê bình Anh JB Steane từng viết: "người ta có thể kết luận từ các bản thu âm của Price rằng cô là thông dịch viên tốt nhất của Verdi trong thế kỉ này", còn nam danh ca opera Domingo thì nhận định rằng: "sức mạnh và cảm xúc trong giọng hát của Leontyne là một hiện tượng nữ cao Verdi đẹp nhất mà tôi từng nghe". Sự nghiệp thu âm đa dạng từ các aria kịch tính đến màu sắc, trữ tình, spinto và khả năng thể hiện nhiều loại vai khác nhau đã giúp bà trở thành một trong những "Prima Donna Assoluta" của Met.
Sở trường lớn nhất của Leontyne có lẽ nằm ở việc thư giãn các cơ cằm, môi, khẩu hình để điều khiển độ vang của giọng hát và thay đổi tính chất âm thanh một cách tuyệt vời. Đặc biệt ở các note đô cao, không ai làm điều này tốt hơn bà.
Sự nghiệp của Leontyne đã mở đường cho nhiều thế hệ ca sĩ opera da màu sau này, trở thành cảm hứng bất tận cho nhiều giọng nữ cao nổi tiếng như Renee Fleming, Kiri Te Kanawa, Jessye Norman, Leona Mitchell, Barbara Bonney, Sondra Radvanovsky. Với những đóng góp lớn của mình, bà đã được tạp chí BBC xếp thứ 4 trong danh sách 20 soprano vĩ đại nhất thế kỉ XX. Leontyne cũng là nữ ca sĩ opera nhận được nhiều giải Grammy nhất với tổng cộng 13 giải thưởng. Buổi biểu diễn vở Il Trovatore trong lần debut của bà tại Met đã nhận được những tràng vỗ tay liên tục trong suốt 42 phút, một trong những màn vỗ tay dài nhất trong lịch sử nhà hát này.
Nhược điểm của Leontyne cũng nằm ở chất giọng khàn của bà, nó bị đánh giá là hơi khác so với chuẩn mực opera Ý, nhiều người nghe không quen sẽ cảm thấy hơi khó chịu. Leontyne hoàn toàn có khả năng mở rộng kịch mục sang bel canto, nhưng bà chỉ dừng lại ở các vai dành cho spinto soprano.
Một trong những aria đỉnh cao nhất của Leontyne phải kể đến O Patria Mia trong vở opera Aida của Verdi, đây cũng là vai diễn huyền thoại đem lại tên tuổi cho Leontyne mà chưa từng có ca sĩ nào thể hiện thành công hơn bà. Người ta thậm chí còn đồn rằng Birgit Nilsson sau khi nghe Leontyne thể hiện Aida thì không bao giờ dám động vào vai diễn này lần nữa. Trong buổi diễn opera cuối cùng vào năm 1985 tại Met, ở aria này, Leontyne đã một lần nữa làm khán giả sững sờ với màn vuốt note C6 16 giây bậc thầy không ai sánh kịp.
https://www.youtube.com/watch?v=xGfP38nd-U0
Tất nhiên, tòa lâu đài opera và nhạc cổ điển rộng lớn vẫn còn rất nhiều tên tuổi bậc thầy khác đáng chú ý, nhưng trên đây là 4 diva hàng đầu mà có lẽ khó ai có thể vượt qua họ.
_Đức Long_
Hải Phòng ngày 12 tháng 8 năm 2014
Cảm ơn bài viết của anh rất nhiều
Trả lờiXóaCallas da bezt :v
Trả lờiXóa