Nữ cao màu sắc là một loại giọng phổ biến trong Opera và nhạc cổ điển, trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Có rất nhiều giọng nữ cao màu sắc thành danh và nổi tiếng, với kỹ thuật điêu luyện, nhưng từ giới chuyên môn tới đông đảo khán giả đều phải thừa nhận, người đứng đầu và xuất sắc nhất trong thế kỷ XX chỉ có thể là Joan Sutherland.
Sự nghiệp lẫy lừng của bậc thầy nghệ thuật Bel Canto
Joan Sutherland sinh năm 1926 tại Úc, trong một gia đình bình dân với bố là thủy thủ viễn dương, tuy không giàu có nhưng kinh tế đầy đủ. Mẹ bà là một giọng nữ trung đầy đủ kỹ thuật, yêu ca hát và am hiểu nhạc lý nhưng lại không theo đuổi con đường ca hát chuyên nghiệp. Chính vì thế, bà đã dồn hết tâm huyết, tình yêu ca hát vào con gái mình. Bà thường ngồi đàn hát những ca khúc Bel Canto những lúc nhàn rỗi. Ngay từ nhỏ, Joan đã được tiếp xúc với âm nhạc như vậy, thường xuyên hát theo mẹ. Đây cũng là tiền đề để bà đến với nghệ thuật Bel Canto (nghệ thuật hát đẹp của Opera Ý) sau này.
Nhận ra năng khiếu bẩm sinh ở con gái, mẹ Joan đã truyền dạy lại cho bà toàn bộ kinh nghiệm, kỹ thuật ca hát cơ bản như lấy hơi, tìm vị trí âm thanh… Dù không thực sự đầy đủ nhưng nhờ đó mà Joan được tiếp xúc với thanh nhạc, ca hát từ sớm để chuẩn bị cho nghề nghiệp sau này.
Sau khi tốt nghiệp trung học, Joan tham gia làm một số công việc văn phòng. Nhưng niềm đam mê ca hát đã thôi thúc bà đi thi một cuộc thi hát nhỏ. Với giọng hát thiên bẩm, Joan giành ngay giải nhất với phần thưởng là một suất học bổng của nhạc viện Sydney. Tại đây, Joan bắt đầu được đào tạo thanh nhạc bài bản dưới sự hướng dẫn của hai giảng viên John và Aida Dickens.
Joan bắt đầu sự nghiệp bằng việc hát trong dàn hợp xướng từ năm 1946. Tuy nhiên, giọng hát của bà quá to khỏe và vang một cách lạ lùng, luôn nổi hơn các thành viên khác nên được khuyên đi hát solo. Một năm sau, Joan được mời tham gia hát chính trong vở Dido của Purcell và sau đó là một số buổi hoà nhạc thính phòng nhỏ. Năm 1951, Joan lại nhận được xuất diễn chính trong vở Judith của Eugene Goossens.
Cũng trong năm ấy, Joan tham gia một cuộc thi hát lớn nhất nước Úc là Sun Aria Competition và ngay lập tức nhận học bổng tại trường Âm nhạc hoàng gia Royal Covent Garden, London, Anh. Tại đây, Joan khiến các giảng viên bất ngờ vì chất giọng to khỏe bẩm sinh của mình. Giảng viên kì cựu Clive Carey muốn bà phát triển thành nữ cao kịch tính chuyên hát Wagner. Bản thân Joan khá thích thú trước hướng đi này vì bà vốn thần tượng Kirsten Flagstad (huyền thoại nữ cao kịch tính Wagner). Joan muốn được trở thành Wagnerian như thần tượng của mình. Trong thời gian đầu sự nghiệp này, Joan chăm chỉ nhận hát các vai phụ làm nền cho những ngôi sao lớn trên sân khấu Opera để lấy kinh nghiệm.
Định mệnh xuất hiện khi Joan gặp và nảy sinh tình yêu với nhạc trưởng Richard Bonynge, người sau này cũng chính là chồng bà. Richard là người định hình rõ rệt và ảnh hưởng lớn nhất tới sự nghiệp của Joan. Ông chỉ dẫn bà rất nhiều bài học sâu sắc về kỹ thuật, cách hát, xử lý tác phẩm. Một trong những nhận định mang tính cách mạng của Richard về Joan là bà không phải giọng kịch tính như chính bà và mọi người vẫn nghĩ. Thay vào đó, Richard khẳng định rằng Joan là một nữ cao màu sắc. Chính vì thế, ông đã hướng dẫn bà tập luyện các kỹ thuật hát chuyên biệt của loại giọng này để hát được những vở Opera màu sắc.
Đặc biệt hơn cả, Richard còn có mối quan tâm mạnh mẽ tới trường phái Opera Bel Canto (vốn từng bị lãng quên trong thời kỳ đó) và muốn Joan đi theo trường phái này. Ông tìm hiểu rất kỹ và đích thân hướng dẫn Joan cách hát Bel Canto đúng chuẩn, bao gồm nhiều kỹ thuật khó như trillo, staccato, mezza di voce, legato…
Dưới sự hướng dẫn của chồng, Joan chuyển sang nghiên cứu, luyện tập những vai coloratura trong Opera Bel Canto và Opera Baroque. Có thể nói, Joan là một trong những ca sĩ nỗ lực và có ý chí nhất. Nhờ sự khổ luyện của mình, bà đã chuyển hẳn loại giọng từ kịch tính sang màu sắc, mở rộng âm vực và thực hiện được hàng loạt kỹ thuật hoa mỹ tinh xảo.
Năm 1959, Joan lần đầu đảm nhận một vai chính dành cho giọng màu sắc là Lucia trong vở Lucia di Lammermoor. Bà đã đốt cháy cả nhà hát bằng những note cao rực rỡ, khiến khán giả vỗ tay không ngớt. Joan đã đưa vai diễn này trở thành kinh điển của Opera, gắn với tên tuổi bà.
Một năm sau đó, Joan được mời thu âm album The art of Prima Donna. Bằng sự thể hiện tinh tế của mình, Joan đã đánh bay hoài nghi rằng những giọng hát âm lượng quá lớn như bà thì không hợp với phòng thu. Album được coi như một chuẩn mực đối với những giọng nữ cao màu sắc thế hệ sau và cũng là một trong những album best seller mọi thời đại.
Cùng năm đó, Joan lần đầu xuất hiện tại Ý (quê hương Opera) với vai Alcina (Handel) và khiến các khán giả khó tính nhất cũng phải kinh ngạc. Họ đặt cho bà biệt danh La Stupenda (tuyệt diệu) để thể hiện lòng ngưỡng mộ trước giọng hát vi diệu của bà.
Kể từ đó, Joan tiếp tục hát nhiều vai diễn khác và nổi tiếng khắp thế giới, gặt hái được nhiều thành công vang dội. Năm 1970, Sutherland lại làm nên một buổi biểu diễn lịch sử với vở Norma tại nhà hát Metropolitan (Mỹ). Điều đáng nói là Norma vốn là vai đóng đinh với tên tuổi huyền thoại Maria Callas và không ai nghĩ sẽ có người thay thế được bà.
Vậy nhưng Joan Sutherland đã khiến toàn bộ giới phê bình lẫn khán giả phải trầm trồ khi thể hiện Norma xuất sắc với một màu sắc khác hoàn toàn Callas. So với Callas, Joan đạt tới vẻ đẹp âm thanh lớn hơn, thực hiện các kỹ thuật hoa mỹ hoàn hảo hơn, cách thể hiện cũng khác. Norma là một vai khó và rất ít người vừa có thể diễn xuất vừa thể hiện những đoạn nhạc đòi hỏi kĩ thuật phức tạp của vai diễn, Sutherland không chỉ thể hiện xuất sắc Norma, bà thậm chí còn tự thêm vào nhiều đoạn biến tấu hoa mĩ một cách tinh tế, độc đáo. Chẳng hạn, ở aria Casta Diva, chính Joan đã thêm vào phần cuối một đoạn trillo siêu đẹp và ảnh hưởng tới nhiều ca sĩ sau này.
Có thể nói, Joan là một trong số ít nghệ sĩ có nhiều đóng góp lớn nhất với trường phái Opera Bel Canto. Nếu Maria Callas là người khai phá thành công nghệ thuật hát đẹp Bel Canto, đem nó trở lại với khán giả sau hàng thế kỷ ngủ quên thì Sutherland chính là người đưa nó đến đỉnh cao nhất trong Opera. Chính Callas khó tính đã từng thốt lên rằng: "Cô ấy đã bỏ sự nghiệp của tôi lại phía sau những 100 năm" (Nguồn: Nhaccodien).
Maria Callas và Joan Sutherland được xem như hai bậc thầy về Bel Canto song hành cùng nhau. Tuy nhiên, về các kỹ thuật màu sắc trên note cao, Joan còn vượt trội hơn Callas. Joan cũng được xếp thứ hai trong danh sách 20 soprano vĩ đại nhất thế kỷ XX, chỉ sau Maria Callas.
Nhưng trái với Callas, Joan là ngôi sao thân thiện và chịu khó nâng đỡ đồng nghiệp. Danh ca Pavarotti là một trong những đàn em được Joan dẫn dắt. Ông nói:
"Tôi vẫn còn nhớ rõ ràng những ngày đầu sự nghiệp của tôi, bà (Sutherland) đã mời tôi đến Australia cùng cộng tác. Tôi đã học được rất nhiều điều từ người phụ nữ đặc biệt, người ca sĩ tài năng này về giọng hát cũng như về kĩ năng sân khấu. Dường như đối với tôi, khi chúng tôi bên nhau trên sân khấu, đó là những phút giây tôi thực sự cảm thấy dễ chịu nhất" (Nguồn: Nhaccodien).
Với cống hiến to lớn, Joan đã được trao tặng nhiều giải thưởng, danh hiệu cao quí. Năm 1961 bà là người phụ nữ đầu tiên nhận được danh hiêu Australian of the Year (Người Australia của năm). Năm 1975 nhận giải thưởng Companion of the Order of Australia . Đêm giao thừa năm 1979, Joan được nữ hoàng Anh phong tước hiệu Dame. Bà cũng là một trong những nghệ sỹ hiếm hoi được trao tặng danh hiệu Order of Merit, danh hiệu cao quí nhất của Anh, rất hiếm khi được trao cho người hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc, nghệ thuật.
Sau khi từ giã sân khấu, Joan thường tham gia các lớp giảng dạy master class để truyền thụ kiến thức cho nghệ sĩ trẻ. Bà cũng chú trọng việc phát triển các tài năng trẻ cho sân khấu Opera.
Giọng hát đặc biệt của một bậc thầy kỹ thuật hàng đầu, ít ai sánh kịp
Joan Sutherland không chỉ đơn thuần là một giọng nữ cao màu sắc, tiếng hát của bà còn vượt xa hơn thế rất nhiều. Bẩm sinh Joan là một giọng nữ kịch tính (không xác định được là nữ cao hay nữ trung), với âm lượng lớn, đanh, dày và tối. Giọng hát bẩm sinh của bà tối và dày tới mức chính bà và và mẹ bà đều nghĩ đó là giọng mezzo (nữ trung) chứ không phải nữ cao.
Tới khi học thanh nhạc, các giảng viên đều nhận định Joan là giọng nữ cao kịch tính. Nhưng tới khi gặp chồng mình là nhạc trưởng Richard, bà lại được rèn luyện để trở thành nữ cao màu sắc.
Đây là điều cực hiếm có xảy ra bởi tiêu chuẩn của nữ cao màu sắc là âm sắc giọng phải sáng, tessitura nằm trên âm vực cao chót vót. Trong khi đó, màu giọng bẩm sinh của Joan trước đó lại tối và dày, khó lên được note cao. Điều đó cho thấy, bà đã phải khổ luyện vô cùng để thay đổi được cả âm sắc lẫn quãng giọng của mình, phá vỡ mọi giới hạn. Tất nhiên, ngoài tập luyện vẫn là khả năng thiên phú trong cổ họng đặc biệt của Joan.
Chưa kể, việc là giọng kịch tính với âm lượng lớn bẩm sinh gần như không thích hợp để hát Bel Canto, đòi hỏi sự linh hoạt khi chạy note và điều khiển âm lượng to nhỏ liên tục. Các giọng kịch tính vì âm lượng quá to nên bị hạn chế về hơi thở cũng như sự linh hoạt.
Tuy nhiên, Joan đã đảo ngược mọi thứ và làm được điều không tưởng đó. Bà vẫn giữ được âm lượng lớn vốn có nhưng lại chạy note linh hoạt với hơi thở bất tận và hát nhỏ siêu mượt. Đây là điều mà gần như không giọng kịch tính nào làm được trừ Maria Callas.
Nhưng ngay cả Callas cũng không đạt đến âm thanh đẹp hoàn hảo khi hát màu sắc như Joan. Nếu ở Callas, người nghe khó tính hay giới chuyên môn đôi khi vẫn tìm ra một số lỗi kĩ thuật nhỏ thì ở Sutherland, dù có soi kĩ đến mấy cũng vẫn là một sự hoàn hảo đến không tưởng ở mọi note nhạc.
Nhờ sự khổ luyện bền bỉ, Joan và Callas đã khai sinh ra loại giọng nữ cao kịch tính màu sắc (dramatic coloratura soprano). Giọng màu sắc thông thường thì nhiều nhưng màu sắc kịch tính lại cực kỳ hiếm. Đặc biệt, một giọng màu sắc chỉ cần đạt dynamic của giọng spinto cũng đã được xem là kịch tính màu sắc nhưng Joan với Callas còn sở hữu dynamic của dramatic.
Trước khi Callas và Sutherland xuất hiện, đa số ca sĩ Opera hát theo giọng nữ cao trữ tình màu sắc (lirico coloratura soprano), tập trung chạy note hoa mỹ với âm lượng không quá lớn. Nhưng Callas và Sutherland đã tạo nên kỳ tích khi khai sinh ra loại giọng nữ cao kịch tính màu sắc.
Đây là loại giọng hiếm thấy, có thể chạy note linh hoạt, quãng rộng nhưng âm lượng lớn, màu giọng đanh, tạo được sự bùng nổ, bão táp cuồn cuộn trên quãng cao, khuấy động cả nhà hát.
Bằng cách này, Callas và Sutherland đã thổi vào Opera một luồng sinh khí mới, đặt nền móng cho các giọng nữ cao khổ luyện để vươn thành kịch tính màu sắc, giúp khán giả được thưởng thức những màn trình diễn đỉnh cao.
Giống như Birgit Nilsson, xoang mặt của Joan rất lớn với các hốc vang bẩm sinh nên giọng bà rất vang, to, khỏe. Nhờ đó, khi lên cao, Joan vẫn giữ được độ dày của giọng hát và đạt âm lượng lớn một cách tự nhiên, thoải mái, không hề gắng gượng hay có sự chói gắt. Joan là một trong những ca sĩ hiếm hoi dù lên tới D6 vẫn êm như ru, bao trùm khắp không gian chứ không cắt xuyên như laser theo kiểu các giọng màu sắc khác, dù âm lượng cực lớn.
Bà cũng sở hữu kỹ thuật covered sound (đóng tiếng) đỉnh cao, với vùng cộng hưởng phía sau gáy chứ không phải đỉnh trán hay xoang mặt như nhiều ca sĩ khác. Vị trí cộng hưởng độc đáo này giúp Joan hát note cao âm lượng lớn, nổi trên dàn nhạc nhưng không lao thẳng ra trước mặt mà nổi khắp không gian, tỏa ra 4 phía, nghe rất đẹp, êm, đã tai.
Kỹ thuật trillo (rung láy) và staccato của Joan cũng đạt tới mức thượng thừa và được áp dụng đầy sáng tạo trong ca hát. Chẳng hạn, bà đã tự thêm những đoạn staccato sáng rực vào aria Sempre Libera hay trillo vào Casta Diva, tạo nên thần sắc mới cho hai ca khúc này. Đặc biệt, dù xuống thấp đến mấy, Joan vẫn dùng head voice chứ không chạm vào chest voice.
Joan hát rất chỉn chu, cẩn thận. Việc giữ gìn giọng hát giúp bà có một sự nghiệp dài hiếm thấy trong giới Opera. Gần 70 tuổi, Joan vẫn giữ được phong độ tốt, giọng hát đẹp và những kỹ thuật khó nhằn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét