Huyền thoại Opera của vùng đất Na Uy
Kirsten Flagstad sinh năm 1885 tại Nauy, trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Cha bà là một nhạc trưởng có tiếng ở Na Uy thời bấy giờ còn mẹ là một nhạc công đệm đàn piano. Ngay từ nhỏ Flagstad đã được mẹ dạy hát, và tiếp tục được gửi đến Oslo học hát với Ellen Schytte Jacobsen, một giảng viên thanh nhạc là bạn thân của mẹ.
Ngay sau đấy Flagstad lại được học với Albert Westwang. Ông đã cố gắng hướng Flagstad đến với âm nhạc Wagner. Như vậy, ngay từ nhỏ, Flagstad đã sớm được tiếp xúc và rèn luyện để hát Opera, như một cách ăn sâu âm nhạc vào máu thịt.
Trước khi đạt đỉnh cao sự nghiệp, Flagstad đã nhiều lần thất bại vì hát những vở Opera không đúng loại giọng. Trong những năm tháng đầu sự nghiệp, Flagstad hát khá nhiều vai, từ những vai operetta của Đức và Na Uy, đến những vai spinto của Verdi như Amelia trong Un Ballo maschera, Desdemona trong Otellovà một số vai verismo của Puccini. Bà thậm chí còn tham gia biểu diễn trong những vở opera thời kỳ Baroque của Handel.
Nhiều nhà phê bình âm nhạc cho rằng chất giọng kịch tính của bà không thực sự phù hợp những vai diễn ấy. Và chỉ đến khi tìm tới những vai Opera nặng đô, Flagstad mới thực sự phát huy sức mạnh của mình.
Nhờ đó, bà có một sự nghiệp Opera phát triển rực rỡ khắp thế giới. Chính Flagstad đã là người cứu nhà hát Metropolitan vượt qua cơn khủng hoảng tài chính trầm trọng trong giai đoạn sau 1935 nhờ vào danh tiếng của mình.
Flagstad qua đời tại Oslo vì bệnh ung thư tuỷ, hưởng dương 67 tuổi. Đất nước Na Uy tôn vinh một tài năng xuất sắc của dân tộc, bên cạnh các vĩ nhân trong lĩnh vực nghệ thuật.
Chính phủ Na Uy cũng quyết định lấy chân dung của bà in trên đồng 100 kroner của hệ thống tiền tệ Na Uy. Người dân Na Uy nhớ tới bà như một người từng được xưng tụng là Giọng ca của thế kỷ, Nữ hoàng của các ca sĩ, hay Ca sĩ Wagnerian vĩ đại nhất trong lịch sử. Chính tài năng và sự cống hiến hết mình cho nghệ thuật đã làm cho tên tuổi của bà trở thành bất hủ trong lịch sử Opera.
Tầm ảnh hưởng và đóng góp của bà lớn tới mức chính phủ Nauy đã in hình bà lên máy bay của hãng hàng không nước này. Nói cách khác, tên tuổi Flagstad thực sự đã vươn tới tầm văn hóa, lịch sử chứ không đơn giản là một ca sĩ.
Giọng hát mang tính sử thi của một nữ thần
Nền nhạc Opera và cổ điển thế giới từng chứng kiến sự xuất hiện của nhiều giọng hát xuất chúng như giọng toàn năng Maria Callas, giọng nữ cao màu sắc Joan Sutherland, giọng falcon soprano Shirley Verrett, giọng spinto đẹp mê li Renata Tebaldi… Nhưng nếu để chọn ra một giọng nữ gần nhất với chữ Diva (nữ thần) thì chỉ có thể là Kirsten Flagstad.
Gốc gác của Flagstad là người Bắc Âu thuần chủng (chính là chủng tộc Viking khét tiếng trong lịch sử). Đây là chủng tộc người có cơ địa và thể trạng cực kỳ phát triển, buồng phổi lớn và phần cơ bắp, khung xương bẩm sinh vượt trội. Chưa kể, việc sinh sống từ nhỏ ở xứ lạnh giúp người Bắc Âu có sức chống chọi cực tốt, dẻo dai và bền bỉ, thể lực mạnh mẽ.
Từ cơ địa vượt trội này đã sinh ra những giọng kịch tính thuần (loại giọng hiếm mà châu Á chưa từng xuất hiện). Trong đó, nữ cao kịch tính là loại giọng được ưa chuộng trong Opera vì thế mạnh cực đại khi lên quãng cao, đủ sức lấp đầy một nhà hát lớn với dàn nhạc đồ sộ phía sau mà không cần dùng micro.
Cần nói qua về giọng nữ cao kịch tính. Đây là loại giọng đặc biệt, đảm nhiệm vai chính trong dòng Opera nặng đô nhất của Wagner, Strauss – được ví như cỗ máy chém giọng, nỗi khiếp sợ của các giọng nữ thông thường. Loại giọng này có quãng trung và cận cao dày, lên cao phát huy tối đa âm lượng khổng lồ, xuyên thấu không gian, cắt được dàn nhạc. Âm sắc giọng nữ cao kịch tính thường đanh, dày, nặng, chắc và khi tung hết sức thì cuồn cuộn như vũ bão. Đây cũng là loại giọng có sức bền lớn nhất, có thể hát trường kỳ với cường độ mạnh mà không lo mất giọng.
Cụ thể, với nội dung về thần thoại, sử thi trường kì nên Opera của Wagner thường diễn ra trong thời gian rất dài, trung bình 4 giờ đồng hồ cho một vở. Chẳng hạn, bộ 4 vở opera Der Ring des Nibelungen nếu hoàn thành phải mất 15 giờ đồng hồ.
Trong đó, chỉ riêng vở Gotterdammerung đã kéo dài tới 5 giờ đồng hồ. Lượng thời gian nhân vật Brunhilde (vai nữ chính dành cho nữ cao kịch tính) xuất hiện chiếm không nhỏ, và càng về cuối lại càng cần đẩy lên kịch tính.
Hay như vai Gurnemanz trong vở Parsifal đòi hỏi đến nửa già màn I (tầm gần 1 tiếng) nhân vật nữ chính phải đứng trên sân khấu để chống chọi dàn nhạc mà không được phép dùng micro.
Thứ hai, vì muốn tạo ra âm hưởng sử thi, hùng tráng nên biên chế dàn nhạc của Wagner khá đồ sộ, trên dưới 100 nhạc công, với nhiều bộ nhạc cụ bằng đồng (loại nhạc cụ cho âm lượng cực lớn). Ca sĩ buộc phải hát thật to nếu không muốn bị áp đảo bởi dàn nhạc.
Nếu không có chất giọng to khỏe vượt trội bẩm sinh và sức khỏe bền bỉ, ca sĩ sẽ không thể hát không micro liên tục trong thời gian dài với cường độ âm lượng lớn để đối đầu với dàn nhạc khổng lồ phía sau.
Mặt khác, dù hát với âm lượng cực lớn, nhưng ca sĩ vẫn phải giữ được sự tự nhiên của giọng hát và tỏ ra thoải mái, chứ không phải kiểu cố rướn lên cho thật to.
Trên thực tế, có nhiều ca sĩ Opera dù có kĩ thuật thượng thừa, nhưng vì cố gắng hát những vai kịch tính trong nhiều năm (trong khi nó không thuộc loại giọng bẩm sinh của họ), nên giọng hát đã bị tàn phá nặng nề, phải nghỉ hưu sớm, điển hình như Beverly Sills, Katia Ricciarelli, Giuseppe di Stefano...
Diva huyền thoại nước Úc Nellie Melba từng liều mình thử một lần hát vai Brunhilde của Wagner. Điều này khiến thanh đới của bà bị hư tổn và phải tĩnh dưỡng nhiều tháng. Giọng hát của bà sau đó cũng không còn giữ được vẻ đẹp trong trẻo như trước.
Hay, Astrid Varnay dù là một Wagnerian soprano nổi bật trong những năm 40, 50, nhưng vì không khai thác đúng giọng hát của mình mà ép nó phải chống chọi với Opera Wagner quá nhiều nên cũng xuống giọng khi ngoài 40 tuổi.
Bởi vậy, chỉ có những giọng kịch tính bẩm sinh được đào tạo bài bản theo đúng thời gian mới dám hát nhạc Wagner hay Strauss.
Thực tế, có một số giọng nữ cao kịch tính nổi tiếng ở sân khấu Opera như Birgit Nilsson, Gwyneth Jones, Ghena Dimitrova… Nhưng đạt tới đỉnh cao đầu tiên là Kirsten Flagstard.
Khác với những giọng nữ cao kịch tính còn lại, giọng hát của Flagstard đặc biệt, độc đáo hơn cả vì có âm sắc đầy đặn, ấm áp hơi hướm của một giọng trữ tình. Nếu nghe Flagstad hát một số aria trữ tình, không ai tin được giọng kịch tính lại ngọt ngào, mềm mại đến thế.
Nhưng Flagstad cũng chính là giọng nữ cao kịch tính nhất trong các giọng kịch tính. Theo nhiều nhận định từ khán giả cùng thời, Flagstad là người có âm lượng giọng lớn nhất trong các giọng kịch tính, vượt cả Birgit Nilsson hay Dimitrova. Giọng hát của bà lớn tới mức dù áp đảo cả dàn nhạc nhưng nghe vẫn rất thoải mái, không hề gắng sức hay có cảm giác đang tung hết mình. Chưa bao giờ khán giả thấy Flagstad tung hết sức để hát, lúc nào cũng tà tà nhưng vẫn lấp đầy nhà hát.
Xét trong các giọng nữ cao kịch tính, âm sắc giọng của Flagstad được đánh giá là đẹp nhất vì không hề chói gắt hay tối, thô như các ca sĩ khác. Nhưng điều tuyệt vời hơn cả là trong giọng hát ấy có tính sử thi điển hình. Những cú A5, B5 full voice của bà lồng lộng, vững chãi và hào sảng, long lanh như một nữ thần bước ra từ thần thoại, sử thi. Đó là lý do vì sao bà được xem là giọng hát gần với chữ Diva (nữ thần) nhất.
Để làm được điều này, ngoài chất giọng bẩm sinh, Flagstad còn sở hữu kỹ thuật cộng hưởng âm thanh đặc biệt. Bà không hát phóng ra trước mặt như nhiều giọng nữ khác mà thả âm thanh bao trùm vùng đầu rồi bay lên trên, từ không gian bên trên vang trùm xuống rồi tỏa ra xung quanh. Kỹ thuật này cực kỳ khó, mà ngày nay không còn ai thực hiện được đẹp như Flagstad.
Bản thân Flagtad cũng phải khổ luyện rất nhiều mới có được giọng hát trác tuyệt như vậy. Khi Flagstad lần đầu tiên thử giọng cho tiến sĩ Gillis Bratt vào năm 1916, ông cho rằng bà bị hụt giọng do chưa phát huy hết giọng hát. Sau khi nghe Flagstad thử giọng trong phòng thu ở Stockholm, tiến sĩ Bratt nói thẳng rằng giọng hát bà như một đứa trẻ và không ai có thể nghe thấy bà trong nhà hát Opera.
Dù cảm thấy chạnh lòng, nhưng Flagstad vẫn quyết định làm việc cùng tiến sĩ Bratt hai lần một tuần trong năm đó. Sau 3 tháng, giọng hát của bà đã to gấp đôi so với trước.
Bà cảm thấy cổ họng được giải phóng và kết nối với cơ thể nhiều hơn. Sau này, Flagstad thường nói về sự kết nối cơ thể của mình và cảm giác hát từ cơ lưng đến cơ hoành chứ mà không phải hát ở cổ họng. Nói cách khác, Flagstad học được kỹ thuật hát bằng cả cơ thể, kết hợp các khối cơ, vị trí trên cơ thể để cộng hưởng sức mạnh âm thanh chứ không chỉ dựa vào cổ họng. Có lẽ đây là kỹ thuật đặc biệt giúp Flagstad giải phóng được giọng hát khổng lồ của mình để hát trường kỳ trong suốt cuộc đời.
Ngoài ra, Flagstad còn là một trong số ít những soprano kịch tính không bị hỏng giọng và duy trì được chất giọng tốt đến cuối sự nghiệp biểu diễn. Tới tận ngoài 60 tuổi, bà vẫn hát rất đẹp và lộng lẫy. Giọng nữ cao màu sắc huyền thoại Joan Sutherland coi Flagstad là thần tượng lớn nhất của mình và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ bà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét