Thứ Tư, 28 tháng 12, 2022

Leontyne Price: Tiếng hát kỳ tích của Diva Opera da màu vĩ đại nhất lịch sử

 Opera là dòng nhạc khắt khe và khó tính nhất, với những tiêu chuẩn cao cấp cả về giọng hát, kỹ thuật lẫn người thể hiện. Dòng nhạc này vốn sinh ra để phục vụ tầng lớp quý tộc ở châu Âu trong những thế kỷ trước nên thường được xem là sân chơi của những nghệ sĩ da trắng. Trước thế kỷ XX, hầu như không có một ca sĩ da màu nào chen chân được vào sân khấu Opera và ngay trong suốt thế kỷ XX, nó vẫn thuộc về giới nghệ sĩ da trắng.

Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp ngoại lệ, bằng tài năng vượt trội của mình đã xoay chuyển lịch sử, vượt qua ranh giới màu da để trở thành một trong những ngôi sao Opera sáng nhất thế kỷ, khiến cả giới chuyên môn lẫn khán giả khó tính nhất cũng phải ngả mũ thán phục. Đó là Leontyne Price – ca sĩ Opera da màu thành công nhất lịch sử.

Leontyne Price: Tiếng hát kỳ tích của Diva Opera da màu vĩ đại nhất lịch sử - Ảnh 1.

Sự nghiệp đầy kỳ tích của một huyền thoại Opera sống

Leontyne Price sinh năm 1927 tại Mississippi trong một gia đình lao động, cha làm thợ mộc còn mẹ là bà đỡ. Tuy không may mắn sinh ra trong gia đình có truyền thống âm nhạc như nhiều đồng nghiệp cùng thời nhưng Leontyne vẫn thường được nghe mẹ mình hát trong dàn hợp xướng của nhà thờ St. Paul Methodist.

Nhờ đó, Leontyne tiếp xúc với âm nhạc từ rất sớm, mới 5 tuổi đã được tập chơi piano. Tới 6 tuổi, bà được trình diễn lần đầu trên một sân khấu nhỏ và ngay lập tức được khen ngợi là một giọng hát thiên phú.

10 tuổi, Leontyne được chỉ định là pianist của trường học. Việc chơi piano thành thạo giúp bà nâng cao khả năng cảm nhạc của mình. Ban đầu, Leontyne chỉ muốn trở thành cô giáo dạy nhạc nên đã theo học chương trình giáo dục âm nhạc tại Central State University, Wilberforce, Ohio. Tuy nhiên, trong một lần hát với dàn hợp xướng, bà đã để lộ giọng hát tuyệt vời của mình và được khuyên theo đuổi nghề ca hát hơn là dạy piano.

Nghe theo lời khuyên đó, Leontyne tìm đến học thanh nhạc tại những giảng viên uy tín và bắt đầu trình diễn trên sân khấu của trường. Nhạc trưởng, nhà phê bình âm nhạc Virgil Thomson trong một lần xem Leontyne trình diễn đã chú ý tới bà và mời bà đi diễn ở nhiều buổi hòa nhạc tại Mỹ cũng như các nước châu Âu.

Thời gian này, dưới sự mở đường của huyền thoại Marian Anderson, Leontyne Price cùng một số ca sĩ người Mỹ gốc Phi thường được mời hát tại các buổi hòa nhạc. Trong khi nhiều ca sĩ da màu khác bị lép vế hơn các ca sĩ da trắng thì Leontyne đã vươn lên trở thành ca sĩ concert nổi tiếng.

Nhưng Leontyne chưa bằng lòng với thành công bước đầu đó, bà muốn tiến sâu hơn vào thánh đường Opera, trở thành nữ chính trong những vở Opera kinh điển, chứ không đơn giản chỉ là một ca sĩ thính phòng. Ở thời điểm ấy, điều này là vô cùng khó khăn với một ca sĩ da màu như Leontyne nhưng bà vẫn không ngừng nỗ lực, lao vào tập luyện hát Opera (bao gồm cả học ngoại ngữ, diễn xuất, kỹ thuật…).

Leontyne Price: Tiếng hát kỳ tích của Diva Opera da màu vĩ đại nhất lịch sử - Ảnh 2.

Huyền thoại Marian Anderson là thần tượng lớn ảnh hưởng tới Leontyne Price. Marian Anderson là ca sĩ da màu đầu tiên được đảm nhận một vai trên sân khấu Opera tại nhà hát Metropolitan (nhà hát Opera danh giá nhất nước Mỹ) vào năm 1955 – vai Ulrica (một vai phụ) trong vở Un ballo in maschera.

Tuy nhiên, vì là giọng nữ trầm và đã bước vào giai đoạn cuối sự nghiệp nên Marian Anderson không thể đảm nhiệm những vai nữ chính trong Opera (vốn viết ra cho nữ cao, nữ trung). Bởi vậy, những định kiến về việc ca sĩ da màu không thể hát Opera vẫn chưa thể xóa bỏ.

Chỉ tới khi Leontyne Price bước lên sân khấu Opera và đảm nhiệm vai nữ chính, những định kiến ấy mới bị phá vỡ. Ngay khi Leontyne hát Aida vào năm 1957, nhạc trưởng huyền thoại Herbert von Karajan siêu khó tính đã phải thốt lên: "Cô ấy chính là nghệ sĩ của tương lai".

Aida cũng chính là vai diễn để đời, gắn liền với sự nghiệp của Leotyne Price, giúp cô đánh bại những ca sĩ da trắng xuất sắc nhất để vươn lên hàng Prima Donna. Có khán giả còn nói đùa rằng, giọng nữ cao kịch tính đình đám Birgit Nilsson sau khi nghe Leontyne hát Aida xong đã không bao giờ động vào vai này nữa.

Bản thân Herbert von Karajan sau đó cũng mời Leontyne hát một số vở Opera do đích thân ông chỉ đạo. Nhà hát Metropolitan thì ngay lập tức ký hợp đồng với bà. Giọng tenor nổi tiếng Franco Corelli (người từng có nhiều trận battle giọng hát với Birgit Nilsson) cũng yêu thích và đồng ý kết hợp cùng Leontyne. Đây là một kỳ tích, khi ca sĩ da màu lại diễn cặp cùng ca sĩ da trắng trên sân khấu Opera.

Năm 1961, Leontyne Price và Franco Corelli cùng nhau diễn vở Il Trovatore trong lần debut của mình tại Metropolitan và khiến khán giả phải vỗ tay liên tục 42 phút sau khi vở diễn kết thúc. Đây cũng là màn vỗ tay lâu nhất lịch sử Metropolitan, cho thấy sức công phá của Leontyne khủng khiếp cỡ nào.

Leontyne Price: Tiếng hát kỳ tích của Diva Opera da màu vĩ đại nhất lịch sử - Ảnh 3.

Tiếp đó, Leontyne Price hát thêm nhiều vai diễn khác nhau và liên tiếp gặt hái thành công. Tất nhiên, để một ca sĩ da màu đứng trên sân khấu của người da trắng vẫn là một điều khá vất vả. Khi Leontyne được mời hát mở màn cho mùa diễn 1961 – 1962, đêm diễn đó suýt phải hủy bỏ vì các nhạc công không muốn để ca sĩ da màu hát chính.

Nhưng vì Leontyne quá tài năng nên đích thân tổng thống Kennedy phải đứng ra làm trung gian hòa giải. Không để khán giả thất vọng, Leontyne đã trình diễn xuất sắc và được tung hô nồng nhiệt hơn bao giờ hết. Bà tự tin nói: "Tài năng không phụ thuộc vào màu da".

Không thể hoài nghi khi nói Leontyne Price là ca sĩ da màu thành công nhất lịch sử Opera, dù trước bà là huyền thoại Marian Anderson, sau bà cũng có nhiều ca sĩ da màu nổi tiếng khác. Ở thời điểm bấy giờ, chỉ một mình Leontyne mới thực sự đạt đến đẳng cấp ngôi sao và có khả năng chiếm lĩnh những vai chính tại mọi nhà hát nổi tiếng trong và ngoài nước Mỹ.

Bà cũng là ca sĩ da màu duy nhất được mệnh danh là Prima Donna Assoluta (Ngôi sao nữ chính toàn năng) của Metropolitan, sánh ngang với những tên tuổi lừng danh khác (đứng đầu giới Opera) như Marian Callas, Renata Tebaldi, Joan Sutherland hay Birgit Nillson.

Nói cách khác, Leontyne đã vượt qua hàng ngàn ca sĩ da trắng khác để vươn lên đứng top đầu giới Opera. Thậm chí, Leontyne còn được xếp thứ 4 trong danh sách 20 soprano vĩ đại nhất mọi thời đại (chỉ dưới Maria Callas, Joan Sutherland và Victoria De Los Angeles).

Thành công của Leontyne đã mở đường cho các ca sĩ da màu tiến vào sân khấu Opera, xóa bỏ ranh giới màu da, chủng tộc. Nhờ đó, Leontyne đã vượt khỏi âm nhạc để trở thành biểu tượng về văn hóa, đấu tranh xã hội, nhân quyền. Bà tham gia rất nhiều hoạt động xã hội và dùng chính sự nghiệp của mình để minh chứng cho tiếng nói bình quyền.

Tuy nhiên, Leontyne vẫn luôn được giới chuyên môn học thuật đánh giá cao về nghề nghiệp chứ không chỉ liên quan tới các phong trào xã hội. Chính bản thân bà cũng có nhiều đóng góp, cống hiến với nền nghệ thuật cổ điển, trở thành một tượng đài để mọi thế hệ đàn em noi theo. Bà là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều giọng nữ cao nổi tiếng như Renee Fleming, Kiri Te Kanawa, Jessye Norman, Leona Mitchell, Barbara Bonney, Sondra Radvanovsky.

Leontyne cũng là nữ ca sĩ Opera nhận được nhiều giải Grammy nhất với tổng cộng 13 giải thưởng. Hiện tại, Leontyne đã 95 tuổi nhưng vẫn sống khỏe mạnh. Bà được coi là huyền thoại sống của nước Mỹ.

Leontyne Price: Tiếng hát kỳ tích của Diva Opera da màu vĩ đại nhất lịch sử - Ảnh 4.

Tiếng hát đặc biệt của một tượng đài

Trong giới Opera, Leontyne nổi bật hơn cả nhờ tiếng hát đặc biệt của mình. Bẩm sinh giọng hát của bà là spinto soprano nên có nội lực rất lớn, đẩy lên kịch tính ở những đoạn cao trào, theo như lời nhà phê bình Harold Schonberg ca ngợi trên tờ New York Times là "giọng hát của cô ấm áp và ngọt ngào với một âm lượng khỏe khoắn có thể dễ dàng lấp đầy bất cứ nhà hát nào" (Nguồn: Nhaccodien). Giọng nam cao kịch tính Franco Corelli vốn có giọng hát khổng lồ và không ít lần suýt đàn áp nữ cao kịch tính Birgit Nilsson nhưng Leontyne vẫn nổi bật khi song ca cùng ông.

Nhưng ở những đoạn trữ tình, giọng hát Leontyne Price lại trở nên mềm mại, mượt mà với những legato và pianissimo chau chuốt.

Giống như huyền thoại Maria Callas, Leontyne sở hữu một chất giọng vô cùng đặc biệt, đa dạng và giàu màu sắc, không thể lẫn với ai được. Chất giọng của bà có đặc trưng hơi khàn và ồm, có thể belt giọng ngực ở quãng trung rất dày, đanh như một nữ trung. Đây là điều ít thấy ở đa số các soprano khác. Âm khu trung của Leontyne ấm áp và đầy đặn, nhưng lên cao lại rất sáng, đẹp, chắc chắn.

Tuy là một spinto soprano, nhưng quãng giọng rộng giúp Leontyne vươn tới tận ngưỡng của coloratura soprano, đồng thời cũng thực hiện được nhiều kĩ thuật màu sắc, linh hoạt của loại giọng này. Bà có thể hát full voice lên tận E6 căng tràn và chính bà từng tiết lộ đã lên tới F6 trong nhà tắm. Trong cảnh 1 của vở Madam Butterfly, Leontyne là một trong số ít ca sĩ giữ được đúng C#6 gốc khi phiêu trường hơi dài mà không phải hạ xuống B5 như nhiều ca sĩ khác.

Điều này chứng tỏ Leontyne có một nền tảng kĩ thuật vô cùng điêu luyện và phong phú. Chính chất giọng đặc biệt kết hợp với kĩ thuật điêu luyện đã giúp Leontyne thực hiện một cách xuất sắc các vai diễn của nhà soạn nhạc Verdi, trở thành đại diện lớn nhất của trường phái Opera Verdian trong thế kỉ XX.

Về đóng góp của Leontyne với trường phái Verdian, nhà phê bình Anh JB Steane từng viết: "Người ta có thể kết luận từ các bản thu âm của Price rằng cô là thông dịch viên tốt nhất của Verdi trong thế kỉ này" (Nguồn: Nhaccodien).

Nam danh ca opera Domingo thì nhận định rằng: "Sức mạnh và cảm xúc trong giọng hát của Leontyne là một hiện tượng nữ cao Verdi đẹp nhất mà tôi từng nghe".

Có thể so sánh Leontyne Price với ngôi sao cùng loại giọng spinto soprano là Renata Tebaldi để thấy được tài năng của bà. Renata Tebaldi nổi bật với âm sắc giọng đẹp nhất giới Opera, tiếng hát như viên ngọc quý.

Leontyne Price không may mắn có được chất giọng đẹp như thế nhưng lại vượt trội hơn về kỹ thuật, quãng giọng. Nhờ đó, dù đi hát sau Renata Tebaldi, khi đồng nghiệp đã gây dựng được danh tiếng lớn lao trong kịch mục của spinto soprano nhưng Leontyne vẫn khẳng định được chỗ đứng cho mình.

Leontyne Price: Tiếng hát kỳ tích của Diva Opera da màu vĩ đại nhất lịch sử - Ảnh 5.

Cũng nhờ kỹ thuật tốt và giọng hát đa dạng, Leontyne có sự nghiệp thu âm cũng như trình diễn sân khấu khá đa dạng, từ các aria kịch tính đến màu sắc, trữ tình, spinto. Bà cũng diễn xuất khá tốt.

Một trong những kỹ thuật độc đáo của Leontyne nằm ở việc thư giãn các cơ cằm, môi, khẩu hình để điều khiển độ vang của giọng hát và thay đổi tính chất âm thanh một cách tuyệt vời, đặc biệt ở các note C6. Nếu nghe kỹ Leontyne Price, khán giả sẽ thấy bà có cách khuếch đại độ vang của giọng hát rất đặc biệt, loang dần theo sóng âm thanh. Cụ thể, khi tung một note dài hơi cao trào, Leontyne sẽ bắn thẳng âm thanh ra phía trước ở vài giây đầu, sau đó di chuyển vị trí âm thanh, khẩu hình để tán độ vang tỏa ra 4 phía, cộng hưởng dội lại. Cách dứt hơi của bà cũng đặc biệt, dồn hết lực để bung giọng vào giây cuối cùng, tạo ra cơn bão cảm xúc cho khán giả.

Tất nhiên, vẫn có nhiều ý kiến cho rằng Leontyne Price ở giai đoạn sau này đã phát triển sai hướng kỹ thuật, dẫn đến những âm thanh không đẹp, nhiều sạn. Nhưng ai cũng phải thừa nhận rằng, ở giai đoạn đầu sự nghiệp, bà là một tiếng hát hoàn thiện, không tỳ vết.

Đặc biệt hơn cả, vì sinh trưởng trong môi trường Gospel (dòng nhạc nhà thờ của người da màu) nên cách hát Opera của Leontyne cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều từ dòng nhạc bình dân này. Bà đã mang hơi thở của nó vào nền nhạc bác học Opera nhưng một chút gia vị độc đáo, đậm tính văn hóa.

Leontyne Price cũng là một trong số ít ca sĩ hát thành công nhất Opera của George Gershwin, thể hiện được màu sắc Jazz trong phong cách sáng tác Opera của ông. Đây là những đóng góp to lớn của Leontyne với nền Opera thế giới. Trong đó, Porgy and Bess là vở Opera hiếm hoi viết riêng về người da màu đã được Leontyne thể hiện thành công. Với những kỳ tích này, tiếng hát Leontyne Price đã trở thành tiếng hát của lịch sử, văn hóa.

Long Phạm


Trang web âm nhạc cộng đồng. Hỗ trợ chúng tôi qua tài khoản: 178204122, ngân hàng VP Bank. Rất biết ơn nếu được hỗ trợ.

Thứ Ba, 27 tháng 12, 2022

Shirley Verrett: Huyền thoại Opera da màu với giọng hát có một không hai

  Thành công của Shirley Verrett và Leontyne Price đã mở đường cho nhiều ca sĩ gốc Phi tiến vào thánh đường Opera sau này.

Opera trong nhiều thế kỷ dường như là sân chơi của các ca sĩ da trắng vì loại hình nghệ thuật hàn lâm này nảy sinh và phát triển tại châu Âu. Tuy nhiên, vẫn có một số ít nghệ sĩ da màu thành công rực rỡ, vượt qua rào cản về màu da, chủng tộc để vươn tới đỉnh cao nhờ tài năng, giọng hát của họ.

Prima Donna (nữ chính xuất sắc) da màu đầu tiên và cũng là vĩ đại nhất trong lịch sử Opera thế kỷ XX là Leontyne Price. Nhưng bên cạnh đó cũng có một giọng hát vô cùng xuất sắc, ấn tượng. Đó là Shirley Verrett.

Ai cũng biết Maria Callas từng là ngôi sao lớn nhất bầu trời Opera thế kỷ XX, đạt tới danh tiếng rực rỡ và sở hữu đông đảo người hâm mộ cuồng nhiệt.

Chính vì vậy, đến tận nhiều năm sau khi Callas từ giã sân khấu, tại nhà hát La Scala (nơi gắn bó nhất với sự nghiệp của Callas) luôn xuất hiện bộ phận những fan hâm mộ cực đoan.

Họ thường tỏ thái độ khó chịu, hiềm khích và cà khịa bất cứ giọng nữ chính nào dám hát lại những kịch mục Callas từng biểu diễn trước đây vì cho rằng không một ai thay thế được Callas. Nhiều buổi biểu diễn của các giọng nữ đàn em đã bị nhóm fan cực đoan quấy nhiễu, la ó dưới khán đài.

Shirley Verrett: Huyền thoại Opera da màu với giọng hát có một không hai - Ảnh 1.

Ngay cả những Diva tầm cỡ như Monserrat Caballe hay Renata Scotto cũng từng gặp phiền phức khi hát La Scala vì khán giả cho rằng họ không bằng Callas.

Tuy nhiên, Shirley Verrett lại là ngoại lệ hiếm hoi không vướng phải bất cứ sự phản đối nào khi hát tại La Scala. Đơn giản vì bà quá tuyệt vời, dù là ca sĩ da đen gốc Phi chứ không phải da trắng thường thấy.

Shirley Verrett sinh năm 1931 trong một gia đình người Mỹ gốc Phi ở New Orleans , Louisiana , Verrett lớn lên ở Los Angeles , California. Ngay từ nhỏ, Verrett đã đi hát trong nhà thờ và sớm bộc lộ năng khiếu âm nhạc trời phú.

Dù ban đầu bị gia đình phản đối, nhưng bà vẫn được học thanh nhạc với những giảng viên có tiếng như Anna Fitziu và Marion Szekely Freschl tại Trường Juilliard ở New York. Từ đó, Verrett nuôi dưỡng niềm đam mê với âm nhạc cổ điển. Năm 1961, bà giành chiến thắng trong Cuộc thử giọng của nhà hát Opera Metropolitan (nhà hát lớn nhất nước Mỹ). Từ đó, bà có cơ hội dấn thân vào sân khấu nhạc cổ điển.

Ngay sau đêm diễn chào sân nhà hát La Scala bằng vai Macbeth (Verdi) năm 1975, Verrett đã gây được tiếng vang lớn. Nhiều nhà phê bình khó tính và khán giả cực đoan của La Scala cũng phải xưng tụng Shirley Verrett là "La Nera Callas" (Callas đen).

Lady Macbeth trở thành mốc son chói lọi của Verett và bản thu âm studio trọn vở Macbeth cho hãng DG với Maestro Claudio Abbado mà Verrett thực hiện năm 1976 luôn được coi là bản ghi âm mẫu mực của vở Opera này.

Shirley Verrett: Huyền thoại Opera da màu với giọng hát có một không hai - Ảnh 2.

Thành công của Verrett thực sự là một kỳ tích vì ca sĩ da màu rất hiếm khi chen chân được vào sân khấu Opera (nơi vốn dành cho các nghệ sĩ da trắng vì Opera khai sinh từ châu Âu). Bà đã xóa tan ranh giới màu da để trở thành một trong hai Prima Donna da màu thành công nhất lịch sử (cùng Leontyne Price).

Điều ấn tượng nhất khi nhắc tới Shirley Verrett là chất giọng đặc biệt, độc đáo và hiếm có của bà, được xem là không kém cạnh gì giọng toàn năng Maria Callas.

Nhìn vào sự nghiệp biểu diễn và các bản ghi âm của Shirley Verrett, thật khó có thể xếp bà vào loại giọng gì. Verrett có thể đảm nhận tốt các kịch mục từ dramatic mezzo cho đến spinto soprano.

Bà đầy sức mạnh ở các note thấp đậm chất contraltoish, trung âm đầy đặn ấm mượt nhưng lại vươn tới  các note cao rắn rỏi, tươi sáng không thua kém một soprano nào cả.

Verrett không hẳn là một mezzo có khả năng hát note cao phát triển lên soprano (kiểu các giọng Wagnerian truyền thống), cũng không phải một soprano có âm vực rộng bẩm sinh vươn tới mezzo (như Callas, Dimitrova). Giới chuyên môn thường gọi bà là "weder Fisch noch Fleisch" - không phải cá cũng chả phải thịt, không phải mezzo cũng chẳng phải soprano, mà là ... ở giữa.  

Tính chất lai tạp trong giọng hát của Shirley Verrett khiến nhiều người xếp bà vào một loại giọng đặc biệt là Falcon Soprano. Đây là loại giọng cực hiếm, được đặt theo tên Cornélie Falcon - nữ ca sĩ Opera Pháp cuối thế kỉ XIX, một người cũng sở hữu giọng hát vừa có tính chất mezzo lẫn soprano như Verret. Sự phân loại này cũng gây khá nhiều tranh cãi. Chính Shirley Verrett cũng khước từ việc dán nhãn bản thân mình là một loại giọng cụ thể nào vì bà không muốn giọng hát của mình bị đem ra mổ xẻ quá nhiều.

Shirley Verrett: Huyền thoại Opera da màu với giọng hát có một không hai - Ảnh 3.

Nhưng đối với công chúng, Verrett vẫn luôn gây ngạc nhiên về giọng hát của bà, khi xuống được quãng cực trầm, quãng trung dày và tối, lại lên cao vút rồi hát với âm sắc của soprano. Điều đặc biệt ở chỗ, giọng hát của Verrette là sự kết hợp giữa thiên phú bẩm sinh và luyện tập kỹ thuật chứ không chỉ đơn giản dùng kỹ thuật để mở rộng kịch mục. Âm sắc giọng của bà dù hát ở nữ trung hay nữ cao cũng đều tự nhiên như chính nguyên bản loại giọng đó, không một chút gượng ép.

Về bản thân mình, Verrett sớm có sự nhận thức về giọng hát đặc biệt ngay từ thời còn là sinh viên của nhạc viện Juilliard và những năm tháng đầu sự nghiệp. Bà tự luyện tập, tự thay đổi và phát triển giọng hát của mình.

Bà từng nói: "Ai có thể hiểu Verrett hơn chính Verrett? Tôi biết cơ thể mình muốn gì, những gì có thể làm được và tất cả về thanh đới của chính tôi" (Nguồn: Nhaccodien).

Ngay từ đầu, Verrett đã duy trì song song kịch mục của 2 loại giọng (một điều không mấy phổ biến ở thời điểm đó). Và Verrett đã chủ động lựa chọn con đường cho mình như thế, phá bỏ mọi rào cản, khuôn phép đã được định sẵn.

Tuy nhiên, trên thực tế, dù sở hữu một giọng hát tuyệt đẹp, nhiều sắc thái, kịch mục phong phú, kĩ thuật và khả năng trình diễn đều xuất sắc và được những tai nghe khó tính nhất ngợi ca, nhưng sự nghiệp của Verrett lại không có thành công tương xứng với loại giọng bà có. Verrett xứng đáng có được ánh hào quang lớn hơn trong sự nghiệp của mình.

Ngoài ra sức khỏe cũng cản trở con đường sự nghiệp của Verrett. Bà luôn được coi là một ca sĩ không ổn định, ngay cả trong thời kì hoàng kim, những cơn dị ứng khiến bà bị tắc cuống phổi và có nhiều buổi diễn thất bại hoặc buộc phải hủy bỏ.

Tuy vậy, những bản ghi âm tuyệt vời mà Verrett để lại đủ để những khán giả yêu Opera luôn nhớ đến bà như là một trong số những nghệ sỹ opera xuất chúng của thế kỷ.

Shirley Verrett: Huyền thoại Opera da màu với giọng hát có một không hai - Ảnh 4.

Điển hình trong số đó là  aria Sapho: O ma lyre immortelle trích trong album Shirley Verrett in Opera"- một trong những studio recital album ít ỏi mà bà thực hiện trong thời kỳ hoàng kim.  Bản aria bộc lộ tất cả ưu thế của Shirley Verrett, khi toàn bộ quãng trung âm lộng lẫy, mịn màng của bà được thỏa sức bay lượn trong những tuyến giai điệu trữ tình, du dương và bung tỏa đầy mãnh liệt ở cao trào.

Thành công của Shirley Verrett và Leontyne Price đã mở đường cho nhiều ca sĩ gốc Phi tiến vào thánh đường Opera sau này. Danh ca Pavarotti rất ngưỡng mộ tài năng của Verrett và thân thiết với bà.

Sau nhiều cống hiến với nghệ thuật Opera, Verrett đã nhận được nhiều giải thưởng lớn như Giải thưởng William Matheus Sullivan, Giải thưởng Marian Anderson… Bà còn được nhận hai bằng tiến sĩ danh dự của trường Cao đẳng Holy Cross và Đại học Đông Bắc về âm nhạc. Tạp chí Essence vinh danh bà là Người phụ nữ Mỹ gốc Phi xuất sắc.

Long Phạm


Trang web âm nhạc cộng đồng. Hỗ trợ chúng tôi qua tài khoản: 178204122, ngân hàng VP Bank. Rất biết ơn nếu được hỗ trợ.

Kirsten Flagstad: Nữ thần sử thi của nền âm nhạc cổ điển thế giới

 Tên tuổi Flagstad thực sự đã vươn tới tầm văn hóa, lịch sử chứ không đơn giản là một ca sĩ.

Huyền thoại Opera của vùng đất Na Uy

Kirsten Flagstad sinh năm 1885 tại Nauy, trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Cha bà là một nhạc trưởng có tiếng ở Na Uy thời bấy giờ còn mẹ là một nhạc công đệm đàn piano. Ngay từ nhỏ Flagstad đã được mẹ dạy hát, và tiếp tục được gửi đến Oslo học hát với Ellen Schytte Jacobsen, một giảng viên thanh nhạc là bạn thân của mẹ.

Ngay sau đấy Flagstad lại được học với Albert Westwang. Ông đã cố gắng hướng Flagstad đến với âm nhạc Wagner. Như vậy, ngay từ nhỏ, Flagstad đã sớm được tiếp xúc và rèn luyện để hát Opera, như một cách ăn sâu âm nhạc vào máu thịt.

Kirsten Flagstad: Nữ thần sử thi của nền âm nhạc cổ điển thế giới - Ảnh 1.

Trước khi đạt đỉnh cao sự nghiệp, Flagstad đã nhiều lần thất bại vì hát những vở Opera không đúng loại giọng. Trong những năm tháng đầu sự nghiệp, Flagstad hát khá nhiều vai, từ những vai operetta của Đức và Na Uy, đến những vai spinto của Verdi như Amelia trong Un Ballo maschera, Desdemona trong Otellovà một số vai verismo của Puccini. Bà thậm chí còn tham gia biểu diễn trong những vở opera thời kỳ Baroque của Handel.

Nhiều nhà phê bình âm nhạc cho rằng chất giọng kịch tính của bà không thực sự phù hợp những vai diễn ấy. Và chỉ đến khi tìm tới những vai Opera nặng đô, Flagstad mới thực sự phát huy sức mạnh của mình.

Nhờ đó, bà có một sự nghiệp Opera phát triển rực rỡ khắp thế giới. Chính Flagstad đã là người cứu nhà hát Metropolitan vượt qua cơn khủng hoảng tài chính trầm trọng trong giai đoạn sau 1935 nhờ vào danh tiếng của mình.

Flagstad qua đời tại Oslo vì bệnh ung thư tuỷ, hưởng dương 67 tuổi. Đất nước Na Uy tôn vinh một tài năng xuất sắc của dân tộc, bên cạnh các vĩ nhân trong lĩnh vực nghệ thuật.

Chính phủ Na Uy cũng quyết định lấy chân dung của bà in trên đồng 100 kroner của hệ thống tiền tệ Na Uy. Người dân Na Uy nhớ tới bà như một người từng được xưng tụng là Giọng ca của thế kỷ, Nữ hoàng của các ca sĩ, hay Ca sĩ Wagnerian vĩ đại nhất trong lịch sử. Chính tài năng và sự cống hiến hết mình cho nghệ thuật đã làm cho tên tuổi của bà trở thành bất hủ trong lịch sử Opera.

Tầm ảnh hưởng và đóng góp của bà lớn tới mức chính phủ Nauy đã in hình bà lên máy bay của hãng hàng không nước này. Nói cách khác, tên tuổi Flagstad thực sự đã vươn tới tầm văn hóa, lịch sử chứ không đơn giản là một ca sĩ.

Kirsten Flagstad: Nữ thần sử thi của nền âm nhạc cổ điển thế giới - Ảnh 2.

Giọng hát mang tính sử thi của một nữ thần

Nền nhạc Opera và cổ điển thế giới từng chứng kiến sự xuất hiện của nhiều giọng hát xuất chúng như giọng toàn năng Maria Callas, giọng nữ cao màu sắc Joan Sutherland, giọng falcon soprano Shirley Verrett, giọng spinto đẹp mê li Renata Tebaldi… Nhưng nếu để chọn ra một giọng nữ gần nhất với chữ Diva (nữ thần) thì chỉ có thể là Kirsten Flagstad.

Gốc gác của Flagstad là người Bắc Âu thuần chủng (chính là chủng tộc Viking khét tiếng trong lịch sử). Đây là chủng tộc người có cơ địa và thể trạng cực kỳ phát triển, buồng phổi lớn và phần cơ bắp, khung xương bẩm sinh vượt trội. Chưa kể, việc sinh sống từ nhỏ ở xứ lạnh giúp người Bắc Âu có sức chống chọi cực tốt, dẻo dai và bền bỉ, thể lực mạnh mẽ.

Từ cơ địa vượt trội này đã sinh ra những giọng kịch tính thuần (loại giọng hiếm mà châu Á chưa từng xuất hiện). Trong đó, nữ cao kịch tính là loại giọng được ưa chuộng trong Opera vì thế mạnh cực đại khi lên quãng cao, đủ sức lấp đầy một nhà hát lớn với dàn nhạc đồ sộ phía sau mà không cần dùng micro.

Cần nói qua về giọng nữ cao kịch tính. Đây là loại giọng đặc biệt, đảm nhiệm vai chính trong dòng Opera nặng đô nhất của Wagner, Strauss – được ví như cỗ máy chém giọng, nỗi khiếp sợ của các giọng nữ thông thường. Loại giọng này có quãng trung và cận cao dày, lên cao phát huy tối đa âm lượng khổng lồ, xuyên thấu không gian, cắt được dàn nhạc. Âm sắc giọng nữ cao kịch tính thường đanh, dày, nặng, chắc và khi tung hết sức thì cuồn cuộn như vũ bão. Đây cũng là loại giọng có sức bền lớn nhất, có thể hát trường kỳ với cường độ mạnh mà không lo mất giọng.

Kirsten Flagstad: Nữ thần sử thi của nền âm nhạc cổ điển thế giới - Ảnh 3.

Cụ thể, với nội dung về thần thoại, sử thi trường kì nên Opera của Wagner thường diễn ra trong thời gian rất dài, trung bình 4 giờ đồng hồ cho một vở. Chẳng hạn, bộ 4 vở opera Der Ring des Nibelungen nếu hoàn thành phải mất 15 giờ đồng hồ.

Trong đó, chỉ riêng vở Gotterdammerung đã kéo dài tới 5 giờ đồng hồ. Lượng thời gian nhân vật Brunhilde (vai nữ chính dành cho nữ cao kịch tính) xuất hiện chiếm không nhỏ, và càng về cuối lại càng cần đẩy lên kịch tính.

Hay như vai Gurnemanz trong vở Parsifal đòi hỏi đến nửa già màn I (tầm gần 1 tiếng) nhân vật nữ chính phải đứng trên sân khấu để chống chọi dàn nhạc mà không được phép dùng micro.

Thứ hai, vì muốn tạo ra âm hưởng sử thi, hùng tráng nên biên chế dàn nhạc của Wagner khá đồ sộ, trên dưới 100 nhạc công, với nhiều bộ nhạc cụ bằng đồng (loại nhạc cụ cho âm lượng cực lớn). Ca sĩ buộc phải hát thật to nếu không muốn bị áp đảo bởi dàn nhạc.

Nếu không có chất giọng to khỏe vượt trội bẩm sinh và sức khỏe bền bỉ, ca sĩ sẽ không thể hát không micro liên tục trong thời gian dài với cường độ âm lượng lớn để đối đầu với dàn nhạc khổng lồ phía sau.

Mặt khác, dù hát với âm lượng cực lớn, nhưng ca sĩ vẫn phải giữ được sự tự nhiên của giọng hát và tỏ ra thoải mái, chứ không phải kiểu cố rướn lên cho thật to.

Trên thực tế, có nhiều ca sĩ Opera dù có kĩ thuật thượng thừa, nhưng vì cố gắng hát những vai kịch tính trong nhiều năm (trong khi nó không thuộc loại giọng bẩm sinh của họ), nên giọng hát đã bị tàn phá nặng nề, phải nghỉ hưu sớm, điển hình như Beverly Sills, Katia Ricciarelli, Giuseppe di Stefano...

Kirsten Flagstad: Nữ thần sử thi của nền âm nhạc cổ điển thế giới - Ảnh 4.

Diva huyền thoại nước Úc Nellie Melba từng liều mình thử một lần hát vai Brunhilde của Wagner. Điều này khiến thanh đới của bà bị hư tổn và phải tĩnh dưỡng nhiều tháng. Giọng hát của bà sau đó cũng không còn giữ được vẻ đẹp trong trẻo như trước.

Hay, Astrid Varnay dù là một Wagnerian soprano nổi bật trong những năm 40, 50, nhưng vì không khai thác đúng giọng hát của mình mà ép nó phải chống chọi với Opera Wagner quá nhiều nên cũng xuống giọng khi ngoài 40 tuổi.

Bởi vậy, chỉ có những giọng kịch tính bẩm sinh được đào tạo bài bản theo đúng thời gian mới dám hát nhạc Wagner hay Strauss.

Thực tế, có một số giọng nữ cao kịch tính nổi tiếng ở sân khấu Opera như Birgit Nilsson, Gwyneth Jones, Ghena Dimitrova… Nhưng đạt tới đỉnh cao đầu tiên là Kirsten Flagstard.

Khác với những giọng nữ cao kịch tính còn lại, giọng hát của Flagstard đặc biệt, độc đáo hơn cả vì có âm sắc đầy đặn, ấm áp hơi hướm của một giọng trữ tình. Nếu nghe Flagstad hát một số aria trữ tình, không ai tin được giọng kịch tính lại ngọt ngào, mềm mại đến thế.

Nhưng Flagstad cũng chính là giọng nữ cao kịch tính nhất trong các giọng kịch tính. Theo nhiều nhận định từ khán giả cùng thời, Flagstad là người có âm lượng giọng lớn nhất trong các giọng kịch tính, vượt cả Birgit Nilsson hay Dimitrova. Giọng hát của bà lớn tới mức dù áp đảo cả dàn nhạc nhưng nghe vẫn rất thoải mái, không hề gắng sức hay có cảm giác đang tung hết mình. Chưa bao giờ khán giả thấy Flagstad tung hết sức để hát, lúc nào cũng tà tà nhưng vẫn lấp đầy nhà hát.

Xét trong các giọng nữ cao kịch tính, âm sắc giọng của Flagstad được đánh giá là đẹp nhất vì không hề chói gắt hay tối, thô như các ca sĩ khác. Nhưng điều tuyệt vời hơn cả là trong giọng hát ấy có tính sử thi điển hình. Những cú A5, B5 full voice của bà lồng lộng, vững chãi và hào sảng, long lanh như một nữ thần bước ra từ thần thoại, sử thi. Đó là lý do vì sao bà được xem là giọng hát gần với chữ Diva (nữ thần) nhất.

Để làm được điều này, ngoài chất giọng bẩm sinh, Flagstad còn sở hữu kỹ thuật cộng hưởng âm thanh đặc biệt. Bà không hát phóng ra trước mặt như nhiều giọng nữ khác mà thả âm thanh bao trùm vùng đầu rồi bay lên trên, từ không gian bên trên vang trùm xuống rồi tỏa ra xung quanh. Kỹ thuật này cực kỳ khó, mà ngày nay không còn ai thực hiện được đẹp như Flagstad.

Bản thân Flagtad cũng phải khổ luyện rất nhiều mới có được giọng hát trác tuyệt như vậy. Khi Flagstad lần đầu tiên thử giọng cho tiến sĩ Gillis Bratt vào năm 1916, ông cho rằng bà bị hụt giọng do chưa phát huy hết giọng hát. Sau khi nghe Flagstad thử giọng trong phòng thu ở Stockholm, tiến sĩ Bratt nói thẳng rằng giọng hát bà như một đứa trẻ và không ai có thể nghe thấy bà trong nhà hát Opera.

Kirsten Flagstad: Nữ thần sử thi của nền âm nhạc cổ điển thế giới - Ảnh 5.

Dù cảm thấy chạnh lòng, nhưng Flagstad vẫn quyết định làm việc cùng tiến sĩ Bratt hai lần một tuần trong năm đó. Sau 3 tháng, giọng hát của bà đã to gấp đôi so với trước.

Bà cảm thấy cổ họng được giải phóng và kết nối với cơ thể nhiều hơn. Sau này, Flagstad thường nói về sự kết nối cơ thể của mình và cảm giác hát từ cơ lưng đến cơ hoành chứ mà không phải hát ở cổ họng. Nói cách khác, Flagstad học được kỹ thuật hát bằng cả cơ thể, kết hợp các khối cơ, vị trí trên cơ thể để cộng hưởng sức mạnh âm thanh chứ không chỉ dựa vào cổ họng. Có lẽ đây là kỹ thuật đặc biệt giúp Flagstad giải phóng được giọng hát khổng lồ của mình để hát trường kỳ trong suốt cuộc đời.

Ngoài ra, Flagstad còn là một trong số ít những soprano kịch tính không bị hỏng giọng và duy trì được chất giọng tốt đến cuối sự nghiệp biểu diễn. Tới tận ngoài 60 tuổi, bà vẫn hát rất đẹp và lộng lẫy. Giọng nữ cao màu sắc huyền thoại Joan Sutherland coi Flagstad là thần tượng lớn nhất của mình và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ bà.

Long Phạm


Trang web âm nhạc cộng đồng. Hỗ trợ chúng tôi qua tài khoản: 178204122, ngân hàng VP Bank. Rất biết ơn nếu được hỗ trợ.



Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2022

Những Diva huyền thoại của nền âm nhạc bác học thế giới (Phần 6: Marian Anderson và Zinka Milanov)

 Diva là một danh hiệu cao quý mà công chúng dành tặng cho một số ít nữ ca sĩ có tài năng xuất chúng trong thanh nhạc và âm nhạc.

Đối với hầu hết các nữ ca sĩ đã và đang hoạt động trong nghệ thuật âm nhạc, diva luôn là giấc mơ, khát khao tột bậc của họ, là nấc thang cao nhất mà họ muốn vươn tới để khẳng định sự nghiệp của mình.

Với công chúng, diva là một trong những thước đo để đánh giá, công nhận năng lực, cống hiến của người nghệ sĩ nữ.

Dù danh hiệu này thuộc về công chúng, không có bất cứ tổ chức nào đứng ra xếp hạng hay bình chọn, nhưng nó cũng có những quy chuẩn vô cùng khắt khe mà rất ít nữ ca sĩ có thể đạt được.

Thông thường, một nữ ca sĩ được gọi là Diva cần có giọng hát hiếm thấy, kỹ thuật thượng thừa và cống hiến to lớn với nền âm nhạc.

Rất nhiều ca sĩ từng gây ý kiến trái chiều khi tự nhận hoặc được gọi là Diva. Nhưng cũng có một số ít ca sĩ đóng đinh với chữ Diva, khiến công chúng luôn nhớ đến họ mỗi khi nhắc đến danh xưng này. Họ là những Diva huyền thoại và trác tuyệt, đúng nghĩa nhất, khiến ai cũng ngưỡng mộ.

Cần phải nhắc đến Diva Opera đầu tiên, vì họ là những Diva nguyên gốc, với đầy đủ mọi chuẩn mực cao quý nhất của nền âm nhạc bác học.

Những Diva huyền thoại của nền âm nhạc bác học thế giới (Phần 6) - Ảnh 1.

Marian Anderson

Marian Anderson – Giọng nữ trầm huyền thoại của nước Mỹ

Trong nền nhạc Opera và cổ điển, giọng nữ trầm dường như ít xuất hiện và ít có cơ hội nổi tiếng hơn nữ trung và nữ cao. Bản thân nữ trầm đã là loại giọng hiếm, ít người có và việc viết ca khúc riêng cho họ cũng khó hơn nên không nhiều nhà soạn nhạc chú trọng loại giọng này. Ngay trong Opera, các vai nữ chính đều dành cho nữ cao và nữ trung, nữ trầm chỉ được xếp vào vai phụ. Chính vì thế, giọng nữ trầm khó đạt được ánh hào quang như các loại giọng khác.

Tuy nhiên, vẫn có một giọng nữ trầm nhờ tài năng và cống hiến của mình mà làm nên lịch sử, đó là Marian Anderson.

Marian Anderson sinh năm 1897 tại Pennsylvannia, Philadelphia (Mỹ), trong một gia đình nghèo. Bà trải qua một tuổi thơ đầy khó khăn nhưng vẫn được hưởng một nền giáo dục đầy đủ.

Anderson đam mê âm nhạc từ nhỏ và sớm bộc lộ năng khiếu ca hát nên mới 6 tuổi đã được đưa vào dàn hợp xướng. Thật đặc biệt là ngay từ lúc này, chất giọng nữ trầm của Anderson đã được bộc lộ và được mọi người gọi bằng biệt danh "The Baby Contralto". Đây là điều hiếm thấy vì đa số giọng nữ trầm chỉ phát triển đầy đủ khi đã trưởng thành.

Suốt thời niên thiếu, Anderson đi hát ở các tụ điểm âm nhạc để thỏa đam mê. Tới năm 17 tuổi, giọng hát trời phú của bà đã lọt vào mắt xanh giọng soprano Mary Saunders Patterson và được nhận dạy miễn phí. Tiếp đó, Anderson liên tục được các nhà sư phạm thanh nhạc hàng đầu nhận dạy vì ấn tượng với giọng contralto của bà.

Năm 1925, Anderson chiến thắng trước 300 đối thủ tại cuộc thi Lewisohn Stadium và có vinh dự được hát cùng New York Philharmonic trước 7500 khán giả. Cuộc biểu diễn này đã gây được tiếng vang lớn và khiến Arthur Judson, một ông bầu chuyên tổ chức các buổi biểu diễn đầy uy tín chú ý tới Anderson. Ông đã kí một hợp đồng với bà. Kể từ đó, Anderson gặt hái được nhiều thành công và đi diễn khắp nước Mỹ.

Marian Anderson sở hữu giọng nữ trầm quý hiếm cùng kỹ thuật điêu luyện, khiến nhạc trưởng Arturo Toscanini phải thốt lên: "Giọng hát của cô chỉ xuất hiện một lần trong vòng một trăm năm" (Nguồn: Nhaccodien).

Còn tờ New York Times thì viết: "Cô sở hữu một giọng hát tràn trề sức mạnh, tràn đầy cảm xúc, tạo ra sự tương phản rõ rệt và đặc biệt là sự duyên dáng".

Những Diva huyền thoại của nền âm nhạc bác học thế giới (Phần 6) - Ảnh 2.

Giọng hát của Anderson rất tối, sâu và có sức nặng lớn. Bà có thể hát giọng thật cực dày và xuống trầm như một giọng đàn ông. Âm vực của bà rất rộng, lên đến gần 3 quãng 8.

Anderson xuống thấp nhất là F2 (vốn khó khăn ngay cả đối với những baritone – nam trung) và lên cao tới âm vực của dramatic soprano dù rằng giọng hát của bà chính thức là contralto.

Bà cũng ghi âm một vài aria dành cho soprano. Tuy nhiên, contralto không phải là một giọng hát thích hợp cho Opera nên sự xuất hiện chủ yếu của Anderson là trong các tác phẩm thanh nhạc nhà thờ của Bach, Handel, Brahms hoặc các lieder của Schubert, Schumann cũng như những bài hát dân gian Mĩ mang âm hưởng tôn giáo.

Marian Anderson không chỉ đơn thuần là một ca sĩ một nhà yêu nước mà còn là một ví dụ điển hình nhất cho cho niềm tự hào của nhân dân Mỹ. Suốt cuộc đời mình, bà dùng tiếng hát để đấu tranh nhân quyền, chống phân biệt chủng tộc.

Khoảnh khắc Marian Anderson đứng hát trước hơn 75 nghìn khán giả cũng như hàng triệu thính giả qua làn sóng phát thanh tại buổi hòa nhạc ngoài trời phía trước Lincoln Memorial trong ngày lễ Phục sinh năm 1935 đã đi vào lịch sử nước Mỹ.

Trong thập niên 60, 70 của thế kỉ 20 xuất hiện một lớp những ca sĩ Mĩ da đen vô cùng nổi tiếng như Leontyne Price, Grace Bumbry, Jessye Norman, Kathleen Battle… nhưng mỗi khi nhắc đến Anderson, họ đều bày tỏ lòng kính trọng sâu sắc, coi bà là thần tượng, là cái đích để họ phấn đấu, vươn lên trong sự nghiệp.

Trong cuộc đời hoạt động nghệ thuật kéo dài gần 80 năm, Anderson đã tạo cảm hứng cho nhiều triệu khán giả nhưng họ luôn nhớ tới bà là người  đã xóa đi rào cản ngăn cách giữa người da đen và người da trắng, giúp họ xích lại nhau hơn.

Trong suốt cuộc đời mình, bà đã giành được vô số giải thưởng danh giá. Năm 1963, bà được nhận huân chương American Medal of Freedom. Năm 1977, Quốc hội Mỹ trao tặng bà huy chương vàng nhân dịp 70 năm ngày sinh nhật Anderson. Năm 1986, bà nhận National Medal of Arts do tổng thống trao tặng.

Những Diva huyền thoại của nền âm nhạc bác học thế giới (Phần 6) - Ảnh 3.

Zinka Milanov

Zinka Milanov – Một trong những Diva Opera đầu tiên của thế kỷ XX

Trong giới Opera vẫn truyền tụng nhau về câu chuyện một khán giả đi tìm mua đĩa CD vở La Gioconda của huyền thoại Maria Callas trong thời kỳ bà độc tôn vì tin rằng đó là CD hay nhất. Trong lúc đang đợi lấy đĩa CD thì khán giả này gặp một linh mục mặc áo choàng đen bước vào. Vị linh mục này cũng hỏi mua CD La Gioconda nhưng là của Zinka Milanov không chứ không phải Callas.

Người khán giả này khá ngạc nhiên, không hiểu sao vị linh mục lại không mua CD của Callas trong khi nó được xem là hay nhất. Cho tới nhiều năm về sau, anh ta mới hiểu được rằng, CD của Milanov cũng hay không kém.

Sở dĩ như vậy vì chính danh ca Renata Tebaldi từng bày tỏ quan điểm rằng Maria Callas chính là La Gioconda vĩ đại nhất, nhưng giọng ngực (chest voice) của Milanov trong La Gioconda mới là thứ hay nhất trong tất cả những ca sĩ nữ từng hát nó.

Zinka Milanov là một trong những thế hệ Prima Donna đầu tiên của Opera thế kỷ XX, trước cả Maria Callas. Bà sở hữu giọng nữ cao kịch tính hiếm thấy, đồ sộ với âm lượng lớn, phần quãng trung giọng ngực đanh dày, chắc khỏe, nội lực cuồn cuộn. Vào thời kỳ đỉnh cao của mình, dường như không tìm thấy được khuyết điểm trong giọng hát vàng ròng của bà, đúng như lời Joan Sutherland nói:

"Giọng hát này không sạn, không gợn, không trầy xước, không ồn chói. Âm thanh của cô ấy tráng lệ, ấm áp, trong trẻo và phát âm cực kỳ tuyệt vời" (Nguồn: Nhaccodien).

Dù không phải là người Ý, nhưng Milanov hát được và hiểu được ngôn từ tiếng Ý như một ca sĩ bản địa thực thụ, đặc biệt là những vở Opera thuần Ý. Nam cao Giuseppe Di Stefano khẳng định: "Cô ấy không phải người Ý, nhưng cô ấy hiểu mọi thứ về Opera". (Nguồn: Nhaccodien).

Giọng nữ cao Giulietta Simionato thì nhận xét: "Nếu như cô ấy biểu diễn tại Ý thường xuyên hơn, nhà hát La Scala sẽ bị cô ấy chiếm giữ, mọi người sẽ điên cuồng vì giọng hát này. Tôi đảm bảo với bạn, cô ấy sẽ đứng hàng top tại những nhà hát ở thành Rome" (Nguồn: Nhaccodien).

Về Opera, Milanov là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của trường phái Opera Verdi. Thế mạnh của một nữ cao kịch tính giúp Milanov lên được những đoạn cao trào bùng nổ, dữ dội, giằng xé nhưng cũng có lúc ấm áp, đầy đặn. Đây là điều mà hiếm giọng nữ cao kịch tính nào làm được.

Những Diva huyền thoại của nền âm nhạc bác học thế giới (Phần 6) - Ảnh 4.

Về mảng Opera Verdi, nhạc trưởng vĩ đại cuối thế kỷ 19 Arturo Toscanini từng nói: "Tất cả các bản nhạc của Verdi chắc hẳn sẽ thích giọng hát này lắm đây. Tôi rất hiếm khi nghe một giọng nữ cao nào hát các vở của Verdi như cô ấy, nếu có cơ hội làm lại bản Rigoletto hoàn chỉnh lần nữa, vai Gilda sẽ phải là cô ấy" (Nguồn: Nhaccodien).

Biểu tượng văn hóa với giọng hát tự nhiên đẹp nhất kỷ nguyên ghi âm Rosa Ponselle cũng khẳng định: "Tôi phải khẳng định rằng, cô ấy là một giọng ca tuyệt vời, cô ấy là một phần của lịch sử trình diễn Opera và đạt đến đỉnh cao nhất. Cô ấy làm hoàn hảo mọi vai diễn" (Nguồn: Nhaccodien).

Thậm chí, đến thiên tài Maria Callas với tính cách ngông ngênh cũng phải thừa nhận về Milanov: "Tôi rất sợ việc cô ấy có thể nhìn thấu tôi, nếu như bạn có chút sai sót nào, với tư cách là một nghệ sĩ đích thực, cô ấy sẽ nhìn ra lỗi đó, bạn không thể lừa được ánh mắt và đôi tai của cô ấy. Cô ấy thực sự duyên dáng đấy, nhưng tôi vẫn khá sợ hãi" (Nguồn: Nhaccodien).

Qua những nhận định trên, có thể thấy được phần nào tài năng của Zinka Milanov. Vì sự nghiệp của bà diễn ra trước thời kỳ hoàng kim của kỷ nguyên thu âm thế kỷ XX nên công chúng ngày nay ít biết tới bà hơn những danh ca Opera khác.

Hơn nữa, Milanov cũng nổi tiếng với tính cách đồng bóng, không chịu nhường nhịn đàn em nào. Nhưng dù sao đi nữa cũng không thể phủ nhận, bà là một tài năng lớn, giọng hát đồ sộ khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều thế hệ ca sĩ đi sau, khiến ai cũng phải ngả mũ kính phục.

Long Phạm


Trang web âm nhạc cộng đồng. Hỗ trợ chúng tôi qua tài khoản: 178204122, ngân hàng VP Bank. Rất biết ơn nếu được hỗ trợ.

Những Diva huyền thoại của nền âm nhạc bác học thế giới (Phần 5: Beverly Sills và Marilyn Horne)

 Diva là một danh hiệu cao quý mà công chúng dành tặng cho một số ít nữ ca sĩ có tài năng xuất chúng trong thanh nhạc và âm nhạc.

Đối với hầu hết các nữ ca sĩ đã và đang hoạt động trong nghệ thuật âm nhạc, diva luôn là giấc mơ, khát khao tột bậc của họ, là nấc thang cao nhất mà họ muốn vươn tới để khẳng định sự nghiệp của mình.

Với công chúng, diva là một trong những thước đo để đánh giá, công nhận năng lực, cống hiến của người nghệ sĩ nữ.

Dù danh hiệu này thuộc về công chúng, không có bất cứ tổ chức nào đứng ra xếp hạng hay bình chọn, nhưng nó cũng có những quy chuẩn vô cùng khắt khe mà rất ít nữ ca sĩ có thể đạt được.

Thông thường, một nữ ca sĩ được gọi là Diva cần có giọng hát hiếm thấy, kỹ thuật thượng thừa và cống hiến to lớn với nền âm nhạc.

Rất nhiều ca sĩ từng gây ý kiến trái chiều khi tự nhận hoặc được gọi là Diva. Nhưng cũng có một số ít ca sĩ đóng đinh với chữ Diva, khiến công chúng luôn nhớ đến họ mỗi khi nhắc đến danh xưng này. Họ là những Diva huyền thoại và trác tuyệt, đúng nghĩa nhất, khiến ai cũng ngưỡng mộ.

Cần phải nhắc đến Diva Opera đầu tiên, vì họ là những Diva nguyên gốc, với đầy đủ mọi chuẩn mực cao quý nhất của nền âm nhạc bác học.

Những Diva huyền thoại của nền âm nhạc bác học thế giới (Phần 5) - Ảnh 1.

Beverly Sills

Beverly Sills – Giọng nữ cao màu sắc vĩ đại nhất nước Mỹ

Trong lịch sử Opera thế kỷ XX từng nổ ra cuộc chiến bất phân thắng bại giữa giọng toàn năng Maria Callas và giọng spinto soprano Renata Tebaldi, kéo theo sự phân chia hai phe khán giả và báo giới. Sở dĩ có cuộc chiến này vì cả Callas lẫn Tebaldi đều quá tài năng, cống hiến, sừng sững như hai tượng đài đứng cạnh nhau, không ai đủ sức nhảy vào so tài với họ.

Nhưng bên cạnh đó, giới mộ điệu Opera cũng được chứng kiến một sự phân chia bất phân thắng bại giữa hai giọng nữ cao màu sắc là Joan Sutherland và Beverly Sills. Được biết, Joan Sutherland là huyền thoại Opera với kỹ thuật siêu đẳng ít ai sánh kịp. Vậy nhưng, Beverly Sills lại được đặt vào thế đối thủ của Joan Sutherland. Điều này cho thấy rõ tài năng và vị trí lớn lao của bà.

Beverly Sills tên thật là Belle Miriam Silverman, sinh năm 1929 tại Brooklyn, New York, Mỹ, trong một gia đình trung lưu lao động chân tay.

Khác với các đồng nghiệp cùng thời, Beverly Sills là một tài năng nở sớm, từng được ví như thần đồng âm nhạc. Mới 3 tuổi, Sills đã  chiến thắng trong một cuộc thi hoa hậu thiếu nhi, gây ấn tượng với các giám khảo bằng ca khúc The wedding of Jack and Jill. Tới năm 4 tuổi, bà được hát trong chương trình ca nhạc thiếu nhi của đài phát thanh New York.

Sớm nhận ra tài năng của Beverly Sills, mẹ bà đã cho con gái học thanh nhạc và lọt vào mắt xanh của giảng viên thanh nhạc nổi tiếng Estelle Liebling. Nhờ đó, bà được luyện thanh và tiếp thu với thanh nhạc cổ điển từ rất sớm.

Năm 7 tuổi, Beverly Sills  đã biểu diễn trên truyền hình những ca khúc rất khó như Il Bacio – Arditi trong bộ phim Uncle Sol solves it, cho thấy cảm nhạc của bà cực kỳ vượt trội.

Bằng trí thông minh thiên bẩm và năng khiếu bẩm sinh, Sills đã vượt qua những bài luyện thanh đặc biệt khó của Liebling. Ai cũng phải trầm trồ khi một cô gái nhỏ bé có thể hát chính xác 22 aria trong 1 album của Amelita Galli-Curci.

Ngoài ca hát, Beverly Sills còn hoàn thiện được nhiều kỹ năng sân khấu khác như diễn xuất, khiêu vũ, nhảy múa. Bà cũng được tiếp xúc và đào tạo để theo đuổi loại hình nhạc kịch Broadways (thể loại nhạc vũ kịch tổng hợp rất được ưa chuộng ở Mỹ). Sills bắt đầu có chuyến lưu diễn khi mới 15 tuổi với tư cách là ca sĩ biểu diễn những vở nhạc kịch nhẹ của Gilbert và Sillivan.

Tất cả những yếu tố trên đã tôi luyện cho Beverly Sills một bản lĩnh sân khấu lớn và những kỹ năng biểu diễn hoàn thiện nhất, giúp bà nổi trội và khác biệt hơn những đồng nghiệp cùng thời (vốn chỉ thiên về ca hát).

Là một nữ cao màu sắc với khả năng thiên bẩm cộng với rèn luyện nghiêm khắc từ nhỏ, Beverly Sills đã đạt tới đỉnh cao của việc chạy note, điều khiển giọng hát một cách hoa mỹ nhất.

Điểm vượt trội trong giọng hát của Beverly Sills là tốc độ, sự linh hoạt (agility) trong việc chuyển quãng, chạy note. Những bài tập luyện thanh nghiêm khắc, kiên trì ngay từ thuở nhỏ, đã khiến Sills có một làn hơi dài không tưởng, đủ khả năng pianissimo (vuốt nhỏ) các note cao trên C6 một cách nhẹ nhàng, tạo nên những đường legato mịn, mượt, kĩ thuật trillo (rung láy) các note nhạc dễ dàng như làm xiếc và đỉnh cao nhất là những kĩ thuât chạy note, lướt note với tốc độ đáng kinh ngạc.

Những Diva huyền thoại của nền âm nhạc bác học thế giới (Phần 5) - Ảnh 2.

Nhạc trưởng Thomas Schipper phải ca ngợi: "Điểm độc đáo nhất trong cách thể hiện của Sills là cô ấy có thể điểu khiển giọng hát nhanh hơn bất cứ ai đang tồn tại trên trái đất này" (Nguồn: Nhaccodien).

Danh ca Leontyne Price thì cảm thấy kinh ngạc vì: "Không hiểu cô ấy có thể hát được bao nhiêu triệu note trong một câu nhạc" (Nguồn: Nhaccodien).

Beverly Sills hát rất sáng tạo. Đặc trưng của bà là sử dụng cadenza, biến tấu rất đặc biệt và hoàn toàn khác với các soprano bình thường. Những note thêm, note hoa mĩ trang trí mới lạ, gây bất ngờ đối với hầu hết các khán giả.

Vai diễn thành công nhất, đóng đinh tên tuổi Beverly Sills là Nữ hoàng bóng đêm trong vở Die Zauberflöte của Mozart. Đây là một vai diễn khó, đòi hỏi âm vực rất rộng với 5 note F6 staccato, cũng như các kĩ thuật hát màu sắc phức tạp. Vai diễn này từng gây khó khăn cho rất nhiều coloratura soprano tài năng nhưng không hề hấn gì với Beverly Sills. Với những note cao trong vắt, đầy sức mạnh, kĩ thuật coloratura chuẩn mực, Sills đã có một dấu ấn đáng nhớ với Nữ hoàng đêm tối.

Từ Mỹ, Beverly Sills đi diễn khắp châu Âu. Ngôi vị độc tôn trong những vai coloratura soprano trên sân khấu Opera mà Joan Sutheland đã nắm giữ gần 10 năm đã phải chia sẻ với Beverly Sills.

Không chỉ thành công và được ngợi ca trên sân khấu Opera, Beverly Sills còn một trong những nhà phê bình và quản lý có ảnh hưởng lớn nhất trong giới nghệ thuật biểu diễn.

Giữa những năm 1979 và 1991, bà là tổng giám đốc nhà hát NYCO, nhà hát nơi bà đầu tiên gặt hái được sự đón nhận quốc tế vào những năm 60. Bà đã được bầu giữ chức chủ tịch trung tâm Nghệ thuật biểu diễn Lincoln vào 1994.

Năm 2002, Sills lại nhận chức tổng giám đốc nhà hát Metropolitan cho đến năm 2005. Khi mà hầu hết tất cả mọi người đều nghĩ đến nghỉ ngơi, Sills vẫn theo một thời gian biểu mà có thể làm kiệt sức người chỉ bằng nửa tuổi của bà.

Những Diva huyền thoại của nền âm nhạc bác học thế giới (Phần 5) - Ảnh 3.

Marilyn Horne

Marilyn Horne – Giọng nữ trung màu sắc huyền thoại của nước Mỹ

Nhắc tới Diva Opera, người ta thường nhớ tới các giọng nữ cao vì họ chiếm hầu hết vai chính. Tuy nhiên, có một giọng nữ trung đã tỏa sáng và trở thành huyền thoại, với đóng góp không thua bất cứ nữ cao nào, đó là Marilyn Horne.

Vào năm 1983, tạp chí New York Times đã đưa cái tên Marilyn Horne vào danh sách 10 ca sỹ vĩ đại nhất trong lịch sử. Bà thậm chí là ca sĩ duy nhất trong danh sách đó vẫn đang hoạt động biểu diễn. Điều này cho thấy, Horne có một vị trí cực kỳ vững chắc trong nền Opera thế kỷ XX.

Trong khi đó, tờ Opera News đánh giá về Horne như sau: "Marilyn Horne – người mà gương mặt và những bài hát đã tỏa sáng – tại nhiều địa điểm – với nhiều phong cách – bằng nhiều phương tiện truyền thông – trong nhiều năm liền – là ca sỹ có ảnh hưởng lớn nhất đến lịch sử nước Mỹ".

Marilyn Horne may mắn sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Cha bà là một thầy giáo chuyên đào tạo các giọng tenor còn mẹ lại là một người rất say mê âm nhạc và có giọng nữ cao bẩm sinh rất đẹp.

Ngay từ nhỏ, Horne đã được học nhạc và mới 3 tuổi đã đứng trình diễn trước khán giả. Suốt thời thơ ấu, Horne được tham gia nhiều hoạt động âm nhạc và biểu diễn trên sân khấu, trong dàn hợp xướng. Bà được học hành bài bản về thanh nhạc và chú trọng rèn luyện hơi thở từ rất sớm.

Sau khi dấn thân vào con đường Opera chuyên nghiệp, Horne liên tục gặt hái thành công. Năm 1969, với vai Jocasta trong Oedipus Rex của Stravinsky, Horne đã khiến khán giả xúc động tới mức vỗ tay liên tục 7 phút sau khi diễn xong một cảnh trong màn 3.

Nhận thấy rõ những vở Opera quen thuộc đã bị thống trị bởi các giọng nữ cao, Horne đào sâu vào những vở Opera ít người nghe và đem đến cho chúng một sức sống mới bằng giọng hát điêu luyện, kỹ năng diễn xuất tuyệt vời. Bà được xem  là nhà vô địch trong việc giới thiệu những vở Opera tưởng như đã bị quên lãng. Sự kết hợp giữa tiếng hát Horne với Opera của Rossini đã trở thành huyền thoại.

Trên thực tế, danh mục biểu diễn của Horne còn bao gồm cả những vai dành cho giọng contralto (nữ trầm).

Trước thời của Horne, những ca sĩ của Mỹ chỉ được coi là hạng 2 ở châu Âu, trừ một vài trường hợp đặc biệt xuất sắc. Rất khó để ca sĩ Mỹ vượt qua bóng các ca sĩ châu Âu, nơi khai sinh ra Opera. Và chính Horner là một trong những người đi đầu cuộc cách mạng mang lại danh tiếng cho những ca sĩ Mỹ.

Những Diva huyền thoại của nền âm nhạc bác học thế giới (Phần 5) - Ảnh 4.

Marilyn Horne sở hữu một âm sắc giọng tuyệt đẹp trải đều trên toàn bộ âm vực rộng tới 2 quãng 8 rưỡi. Khác với nhiều nữ trung cùng thời, Horne phát triển giọng hát theo hướng màu sắc và trở thành bậc thầy kỹ thuật, đặc biệt ở mảng Bel Canto.

Bà là một trong số ít giọng nữ trung theo đuổi Bel Canto thành công nhất, với type giọng coloratura mezzo soprano độc đáo. Sự nghiệp của Horne chói sáng khắp thế giới nhờ việc hát những vai cực khó dành cho loại giọng này. Horne chạy note rất đẹp, tinh tế, chuyển quãng điêu luyện và kiểm soát cực tốt quãng trung lẫn trầm. Bà có độc chiêu chạy note từ cao xuống thấp rồi lại lên cao mà vẫn mềm mại, không đem theo sức nặng của chest voice lên như nhiều nữ trung khác.

Ngoài kỹ thuật thanh nhạc, Horne còn có sự thông minh, trí tưởng tượng phong phú trong cách xử lí vai diễn và một thái độ làm việc chuyên nghiệp đáng kính trọng. Bà và bậc thầy Joan Sutherland thường xuyên song ca với nhau, tạo nên thế song hành giữa hai giọng màu sắc huyền thoại (một nữ trung – một nữ cao).

Năm 1995, Horne được là thành viên danh dự của Kennedy Center. Bà vinh dự được tham gia trong những buổi chiêu đãi lớn tại Nhà Trắng dưới thời nhiều tổng thống Mỹ.

Horne được phong là tiến sĩ danh dự của các trường đại học danh tiếng như Juilliard Scholl, Đại học Johns Hopkins, Đại học Rutgers và nhiều trường khác nữa.

Bên cạnh đó Horne còn nhận được rất nhiều giải thưởng từ các quốc gia khác trên thế giới như Commander of the Arts and Letters của Bộ văn hóa Pháp; Commendatore al merito della của Ý; Fidelio Gold Medal của International Association of Opera Directors…

Về cuối đời, Horne vẫn miệt mài đi dạy các lớp master class tại Mỹ và châu Âu. Giọng hát của bà được giữ gìn bền bỉ và trải dài nhiều dòng nhạc ngoài Opera.

Long Phạm


Trang web âm nhạc cộng đồng. Hỗ trợ chúng tôi qua tài khoản: 178204122, ngân hàng VP Bank. Rất biết ơn nếu được hỗ trợ.